19-Feb-1901 8-Feb-1902 29-Jan-1903 16-Feb-1904 4-Feb-1905 25-Jan-1906 13-Feb-1907 2-Feb-1908 22-Jan-1909 10-Feb-1910 30-Jan-1911 18-Feb-1912 6-Feb-1913 26-Jan-1914 14-Feb-1915 3-Feb-1916 23-Jan-1917 11-Feb-1918 1-Feb-1919 20-Feb-1920 8-Feb-1921 28-Jan-1922 16-Feb-1923 5-Feb-1924 24-Jan-1925 13-Feb-1926 2-Feb-1927 23-Jan-1928 10-Feb-1929 30-Jan-1930 17-Feb-1931 6-Feb-1932 26-Jan-1933 14-Feb-1934 4-Feb-1935 24-Jan-1936 11-Feb-1937 31-Jan-1938 19-Feb-1939 8-Feb-1940 27-Jan-1941 15-Feb-1942 5-Feb-1943 25-Jan-1944 13-Feb-1945 2-Feb-1946 22-Jan-1947 10-Feb-1948 29-Jan-1949 17-Feb-1950 6-Feb-1951 27-Jan-1952 14-Feb-1953 3-Feb-1954 24-Jan-1955 12-Feb-1956 31-Jan-1957 18-Feb-1958 8-Feb-1959 28-Jan-1960 15-Feb-1961 5-Feb-1962 25-Jan-1963 13-Feb-1964 2-Feb-1965 21-Jan-1966 9-Feb-1967 30-Jan-1968 17-Feb-1969 6-Feb-1970 27-Jan-1971 15-Feb-1972 3-Feb-1973 23-Jan-1974 11-Feb-1975 31-Jan-1976 18-Feb-1977 7-Feb-1978 28-Jan-1979 16-Feb-1980 5-Feb-1981 25-Jan-1982 13-Feb-1983 2-Feb-1984 20-Feb-1985 9-Feb-1986 29-Jan-1987 17-Feb-1988 6-Feb-1989 27-Jan-1990 15-Feb-1991 4-Feb-1992 23-Jan-1993 10-Feb-1994 31-Jan-1995 19-Feb-1996 7-Feb-1997 28-Jan-1998 16-Feb-1999 5-Feb-2000 24-Jan-2001 12-Feb-2002 1-Feb-2003 22-Jan-2004 9-Feb-2005 29-Jan-2006 18-Feb-2007 7-Feb-2008 26-Jan-2009 14-Feb-2010 3-Feb-2011 23-Jan-2012 10-Feb-2013 31-Jan-2014 19-Feb-2015 8-Feb-2016 28-Jan-2017 16-Feb-2018 5-Feb-2019 25-Jan-2020 12-Feb-2021 1-Feb-2022 22-Jan-2023 10-Feb-2024 29-Jan-2025 17-Feb-2026 6-Feb-2027 26-Jan-2028 13-Feb-2029 3-Feb-2030 23-Jan-2031 11-Feb-2032 31-Jan-2033 19-Feb-2034 8-Feb-2035 28-Jan-2036 15-Feb-2037 4-Feb-2038 24-Jan-2039 12-Feb-2040 1-Feb-2041 22-Jan-2042 10-Feb-2043 30-Jan-2044 17-Feb-2045 6-Feb-2046 26-Jan-2047 14-Feb-2048 2-Feb-2049 23-Jan-2050 | - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - | Tân Sửu Nhâm Dần Quý Mẹo Giáp Thìn Ất Tỵ Bính Ngọ Đinh Mùi Mậu Thân Kỷ Dậu Canh Tuất Tân Hợi Nhâm Tý Quý Sửu Giáp Dần Ất Mẹo Bính Thìn Đinh Tỵ Mậu Ngọ Kỷ Mùi Canh Thân Tân Dậu Nhâm Tuất Quý Hợi Giáp Tý Ất Sửu Bính Dần Đinh Mẹo Mậu Thìn Kỷ Tỵ Canh Ngọ Tân Mùi Nhâm Thân Quý Dậu Giáp Tuất Ất Hợi Bính Tý Đinh Sửu Mậu Dần Kỷ Mẹo Canh Thìn Tân Tỵ Nhâm Ngọ Quý Mùi Giáp Thân Ất Dậu Bính Tuất Đinh Hợi Mậu Tý Kỷ Sửu Canh Dần Tân Mẹo Nhâm Thìn Quý Tỵ Giáp Ngọ Ất Mùi Bính Thân Đinh Dậu Mậu Tuất Kỷ Hợi Canh Tý Tân Sửu Nhâm Dần Quý Mẹo Giáp Thìn Ất Tỵ Bính Ngọ Đinh Mùi Mậu Thân Kỷ Dậu Canh Tuất Tân Hợi Nhâm Tý Quý Sửu Giáp Dần Ất Mẹo Bính Thìn Đinh Tỵ Mậu Ngọ Kỷ Mùi Canh Thân Tân Dậu Nhâm Tuất Quý Hợi Giáp Tý Ất Sửu Bính Dần Đinh Mẹo Mậu Thìn Kỷ Tỵ Canh Ngọ Tân Mùi Nhâm Thân Quý Dậu Giáp Tuất Ất Hợi Bính Tý Đinh Sửu Mậu Dần Kỷ Mẹo Canh Thìn Tân Tỵ Nhâm Ngọ Quý Mùi Giáp Thân Ất Dậu Bính Tuất Đinh Hợi Mậu Tý Kỷ Sửu Canh Dần Tân Mẹo Nhâm Thìn Quý Tỵ Giáp Ngọ Ất Mùi Bính Thân Đinh Dậu Mậu Tuất Kỷ Hợi Canh Tý Tân Sửu Nhâm Dần Quý Mẹo Giáp Thìn Ất Tỵ Bính Ngọ Đinh Mùi Mậu Thân Kỷ Dậu Canh Tuất Tân Hợi Nhâm Tý Quý Sửu Giáp Dần Ất Mẹo Bính Thìn Đinh Tỵ Mậu Ngọ Kỷ Mùi Canh Thân Tân Dậu Nhâm Tuất Quý Hợi Giáp Tý Ất Sửu Bính Dần Đinh Mẹo Mậu Thìn Kỷ Tỵ Canh Ngọ | (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) (Ram) (Monkey) (Rooster) (Dog) (Boar) (Rat) (Ox) (Tiger) (Rabbit) (Dragon) (Snake) (Horse) |
Friday, December 11, 2009
Chinese Lunar Calendar: New Year's Dates and Year Names from 1901 to 2050
Chinese Lunar Calendar: The Twenty-Four Solar Terms (Tiết Khí)
The Chinese calendar marks the year with 24 days (called Solar Terms, or Tiết Khí, 節氣) that are used to indicate the alternation of the seasons and climate changes. Tiết Khí played an important role in ancient China's farming activities and animal husbandry.
Since the earth revolves around the sun 360° per year, and since there are 24 solar terms each year, each Tiết Khí is spaced exactly 15° apart along the ecliptic. Since the earth's path around the sun is not a circle but an ellipse, and since its speed is not exactly the same everywhere around that path, each Tiết Khí is not exactly 15 days apart but about 14-16 days apart.
Since all calculations are based on longitude 120° east and latitude 35° north, the exact timing of Tiết Khí may fall on anytime during the day. To standardize the timing, all Tiết Khí begin on the midnight of the corresponding Tiết Khí.
Tiết Khí 1 is Lập Xuân (立春, Beginning of Spring), falls around February 4.
Here is the list.
01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 | 315° 330° 345° 0° 15° 30° 45° 60° 75° 90° 105° 120° 135° 150° 165° 180° 195° 210° 225° 240° 255° 270° 285° 300° | Lập Xuân Vũ Thủy Kinh Trập Xuân Phân Thanh Minh Cốc Vũ Lập Hạ Tiểu Mãn Mang Chủng Hạ Chí Tiểu Thử Đại Thử Lập Thu Xử Thử Bạch Lộ Thu Phân Hàn Lộ Sương Giáng Lập Đông Tiểu Tuyết Đại Tuyết Đông Chí Tiểu Hàn Đại Hàn | 立春 雨水 驚蟄 春分 清明 穀雨 立夏 小滿 芒種 夏至 小暑 大暑 立秋 處暑 白露 秋分 寒露 霜降 立冬 小雪 大雪 冬至 小寒 大寒 | Beginning of Spring Rain Water Waking of Insects Spring Equinox Pure Brightness Grain Rain Beginning of Summer Grain Full Grain in Ear Summer Solstice Slight Heat Great Heat Beginning of Autumn Limit of Heat White Dew Autumnal Equinox Cold Dew Frost's descent Beginning of Winter Slight Snow Great Snow Winter Solstice Slight Cold Great Cold | 4-Feb 19-Feb 5-Mar 12-Mar 5-Apr 20-Apr 6-May 21-May 6-Jun 21-Jun 7-Jul 23-Jul 7-Aug 23-Aug 8-Sep 23-Sep 8-Oct 23-Oct 7-Nov 22-Nov 7-Dec 22-Dec 6-Jan 21-Jan |
Viet-Nam History Books, as Written and Appended throughout the Dynasties
(To download, right-click on the link then save. If the link is invalid, please make a comment, and it will be fixed.)
Lam Sơn Thực Lục: Written in 1431 by Nguyễn Trãi during the Later Lê Dynasty, with a foreword by Emperor Lê Lợi.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: Written around 1697 by a number of historians during the Trần and Lê Dynasties.
Đại Việt Thông Sử: Written in 1759 by Lê Quý Đôn during the Later Lê Dynasty.
Việt Sử Tiêu Án: Written in 1775 by Ngô Thời Sỹ during the Later Lê Dynasty.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục: Written in 1856 by historians during the Nguyễn Dynasty.
Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu: Written in 1908 by historians during the Nguyễn Dynasty.
Việt Nam Sử Lược: Written in 1919 by Trần Trọng Kim during the Nguyễn Dynasty.
Việt Sử Toàn Thư: Written in 1960 by historian Phạm Văn Sơn.
"Chợ Trời" - Poem by Hồ Xuân Hương
Khen thay con Tạo khéo trêu ngươi.
Bày đặt ra nên cảnh chợ Trời!
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi, buôn danh nào nhương kẻ,
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.
"Đánh Đu" - Poem by Hồ Xuân Hương
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá!
Cột nhổ đi rồi, lõ bỏ không.
"Bánh Trôi Nước" - Poem by Hồ Xuân Hương
Thân em vừa trắng, lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
"Đền Thái Thú" - Poem by Hồ Xuân Hương
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.
"Đền Trấn Quốc" - Poem by Hồ Xuân Hương
Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu,
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau!
Một tòa sen lạt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong điểm áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn.
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa, cảnh cũ đâu đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
"Đồng Tiền Hoẻn" - Poem by Hồ Xuân Hương
Cũng lò cũng bể, cũng cùng than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng ắt cũng đóng nên quan.
"Đánh Cờ" - Poem by Hồ Xuân Hương
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Để đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
"Đèo Ba Dội" - Poem by Hồ Xuân Hương
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
"Ốc Nhồi" - Poem by Hồ Xuân Hương
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.
"Bọn Đồ Dốt" - Poem by Hồ Xuân Hương
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống, đem vôi quét trả đền.
"Bà Lang Khóc Chồng" - Poem by Hồ Xuân Hương
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng, chàng ơi, vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì, sao để lại,
Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?
Sinh kỳ, chàng ơi, tử tắc quy.
"Cảnh Thu" - Poem by Hồ Xuân Hương
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
Ơ hay, cánh cương ưa người nhỉ,
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.
"Cái Quạt Giấy" - Poem by Hồ Xuân Hương
Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dáng tự ngàn xưa.
Vành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?
(2)
Mười bảy hay là mười tám đây?
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dầy chừng ấy chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào cắm một cây.
Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát,
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.
"Chơi Đền Khán Xuân" - Poem by Hồ Xuân Hương
Êm ái chiều xuân tới khán đài,
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai !
Bà hồi triêu mộ chuông gầm sóng,
Một vương tang thương nước lộn trời.
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá,
Cực lạc là đây chín rõ mười.
"Chửa Hoang" - Poem by Hồ Xuân Hương
Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm có thấy hỡi chăng chàng?
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đành nẩy nét ngang
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có nhưng mà có mới ngoan.
"Chùa Hương" - Poem by Hồ Xuân Hương
Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom.
"Chùa Quán Sứ" - Poem by Hồ Xuân Hương
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo.
Sáng banh không kẻ khua tang mít,
Trưa trật nào người móc kẽ rêu.
Cha kiếp đường tu sao lắt léo,
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo.
"Chùa Xưa" - Poem by Hồ Xuân Hương
Thày tớ thung dung dạo cảnh chùa,
Thơ thì lưng túi, rượu lưng hồ.
Cá khe lắng kệ, mang nghi ngóp,
Chim núi nghe kinh, cổ gật gù.
Then cửa từ bi chen chật cánh,
Nén hương tế độ cắm đầy lô.
Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí,
Phúc đức như ông được mấy bồ?
"Quán Nước Bên Đường" - Poem by Hồ Xuân Hương
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo.
Ba trạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc, cỏ leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai thả lộn lèo.
"Con Cua" - Poem by Hồ Xuân Hương
Em có mai xanh, có yếm vàng,
Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghêng ngang.
Xin theo ông Khổng về Ðông Lỗ,
Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.
"Dệt Cưởi" - Poem by Hồ Xuân Hương
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con cò mấp máy suốt đêm thâu.
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
Rộng, hẹp, nhỏ, to, vừa vặn cả.
Ngắn, dài, khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,
Chờ đến ba thu mới dãi mầu.
"Dỗ Bạn Khóc Chồng" - Poem by Hồ Xuân Hương
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng.
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em nhé.
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung.
"Duyên Kỳ Ngộ" - Poem by Hồ Xuân Hương
Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.
Tấc gang tay họa thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh.
Tuy không thả lá trôi dòng ngự,
Chim tới vườn đào thế mới xinh.
"Giếng Nước" - Poem by Hồ Xuân Hương
Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thanh tân, giếng lạ lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nuớc trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá giếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai đã biết?
Đố ai dám thả nạ rồng rồng.
"Giễu Quan Hậu" - Poem by Hồ Xuân Hương
Tình cảnh ấy, nước non này,
Dẫu không Bồng Đảo cũng tiên đây.
Hoành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,
Thúy lĩnh đen trùm một thức mây.
Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,
Phất phơ sườn núi lá thu bay.
Hỡi người quân tử đi đâu đó?
Đến cảnh sao mà đứng lượm tay.
"Già Kén Kẹn Hom" - Poem by Hồ Xuân Hương
Bụng làm dạ chịu trách chi ai,
Già kén kẹn hom ví chẳng sai.
Tiếc đĩa hồng ngâm cho chuột vọc,
Thừa mâm bánh ngọt để ngâu vầy.
Miệng khôn trôn dại đừng than phận,
Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời!
Đừng đứng núi này trông núi nọ,
Đói lòng nên mới phải ăn khoai.
"Hầu Nghi Xuân Tiên Điền Nhân" - Poem by Hồ Xuân Hương
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
"Hỏi Cô Hàng Sách" - Poem by Hồ Xuân Hương
Cô hàng lấy sách cắp ra đây!
Xem thử truyện nào thú lại say.
Nữ tú có bao xin xếp cả,
Phương hoa phỏng liệu có còn hay?
Tuyển phu mặc ý tìm cho kỹ,
Chinh phụ thế nào bán lấy may.
Kỳ ngộ bích câu xin tiện hỏi,
Gía tiền cả đó tính sao vay.
"Hỏi Trăng" - Poem by Hồ Xuân Hương
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.
Hỏi con bạch thố đà bao tuổi,
Hở chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ chi soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?
"Hang Cắc Cớ" - Poem by Hồ Xuân Hương
Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá, tài xuyên tạc,
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.
"Hang Thanh Hóa" - Poem by Hồ Xuân Hương
Khen thay con tạo khéo khôn phàm,
Một đố dương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo, rờ rậm rạp.
Lách khe nước rỉ, mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Đến mới biết rằng hang Thanh Hóa,
Chồn nhân, mỏi gối, hãy còn ham.
"Chinh Phụ Ngâm Khúc" by Đặng Trần Côn - Nôm Version by Ðoàn Thị Ðiểm
Chinh Phụ Ngâm Khúc (征婦吟曲)
by Đặng Trần Côn (1715?-1745)
Poem was originally written in Hán Tự, with 483 verses,
using an old free-style form (trường đoản cú).
It was later translated into Nôm by a number of scholars
(3 translations using lục bát meter,
and 4 translations using song thất lục bát meter).
This is the most popular Nôm version,
written by Ðoàn Thị Ðiểm (1705-1748),
with 412 verses, in song thất lục bát meter.
(Some scholars now believe that this version
was written by Phan Huy Ích.)
001 002 003 004 005 006 007 008 009 010 011 012 013 014 015 016 017 018 019 020 021 022 023 024 025 026 027 028 029 030 031 032 033 034 035 036 037 038 039 040 041 042 043 044 045 046 047 048 049 050 051 052 053 054 055 056 057 058 059 060 061 062 063 064 065 066 067 068 069 070 071 072 073 074 075 076 077 078 079 080 081 082 083 084 085 086 087 088 089 090 091 092 093 094 095 096 097 098 099 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 | Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Xanh kia thăm thẳm tầng trên, Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ? Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây. Chín tầng gươm báu trao tay, Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. Nước thanh bình ba trăm năm cũ. Áo nhung trao quan vũ từ đây. Sứ trời sớm giục đường mây, Phép công là trọng, niềm tây sá nào. Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn, Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa. Bóng cờ tiếng trống xa xa, Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng. Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung. Thành liền mong tiến bệ rồng, Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Giã nhà đeo bức chiến bào, Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu. Ngòi đầu cầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non. Đưa chàng lòng dằng dặc buồn, Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền. Nước có chảy mà phiền chẳng rửa, Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây. Nhủ rồi nhủ lại cầm tay, Bước đi một bước dây dây lại dừng. Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi, Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San. Múa gươm rượu tiễn chưa tàn, Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo. Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử, Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba. Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống, Giáp mặt rồi phút bỗng chia taỵ Hà Lương chia rẽ đường này, Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi. Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu, Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương. Quân đưa chàng ruổi lên đường, Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng ? Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng, Hàng cờ bay trong bóng phất phơ. Dấu chàng theo lớp mây đưa, Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà. Chàng thì đi cõi xa mưa gió, Thiếp thì về buồng cũ gối chăn. Đoái trông theo đã cách ngăn, Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh. Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại, Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ? Chàng từ đi vào nơi gió cát, Đêm trăng này nghỉ mát phương nao ? Xưa nay chiến địa dường bao, Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu. Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn, Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon. Ôm yên gối trống đã chồn, Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh. Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại, Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua. Hình khe, thế núi gần xa, Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao. Sương đầu núi buổi chiều như giội, Nước lòng khe nẻo suối còn sâu. Thương người áo giáp bấy lâu, Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây. Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ, Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ? Tưởng chàng giong ruổi mấy niên, Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan. Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ, Lại lạnh lùng những chỗ sương phong. Lên cao trông thức mây lồng, Lòng nào là chẳng động lòng bi thương ! Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo, Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ? Những người chinh chiến bấy lâu, Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây. Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước, Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu ? Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo, Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. Chinh phu tử sĩ mấy người, Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn. Dấu binh lửa, nước non như cũ, Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương. Phận trai già ruổi chiến trường, Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ, Ba thước gươm, một cỗ nhung yên. Xông pha gió bãi trăng ngàn, Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành. Áng công danh trăm đường rộn rã, Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi. Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai, Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây. Trong cửa này đã đành phận thiếp, Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ? Những mong cá nước sum vầy, Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời. Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ, Chàng há từng học lũ vương tôn. Cớ sao cách trở nước non, Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu. Khách phong lưu đương chừng niên thiếu, Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên. Nỡ nào đôi lứa thiếu niên, Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành. Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu, Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca. Nay quyên đã giục, oanh già, Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo. Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió, Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông. Nay đào đã quyến gió Đông, Phù dung lại đã bên sông bơ sờ. Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy, Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm ? Ngập ngừng, lá rụng cành trâm, Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao. Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ, Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao ? Ngập ngừng gió thổi chéo bào, Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông. Tin thường lại, người không thấy lại, Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh. Rêu xanh mấy lớp chung quanh, Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ. Thư thường tới, người không thấy tới, Bức rèm thưa lần dãi bóng dương. Bóng dương mấy buổi xuyên ngang, Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai. Thử tính lại diễn khơi ngày ấy, Tiền sen này đã nẩy là ba. Xót người lần lữa ải xa, Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài. Tình gia thất nào ai chẳng có, Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương. Mẹ già phơ phất mái sương, Con thơ măng sữa, vả đương phù trì. Lòng lão thân buồn khi tựa cửa, Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm. Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam, Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân. Nay một thân nuôi già dạy trẻ, Nỗi quan hoài mang mể biết bao! Nhớ chàng trải mấy sương sao, Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư. Kể năm đã ba tư cách diễn, Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang. Ước gì gần gũi tấc gang, Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay. Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá, Gương lầu Tần dấu đã soi chung. Cậy ai mà gửi tới cùng, Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư. Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía, Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi. Cậy ai mà gửi tới nơi, Để chàng trân trọng dấu người tương thân. Trải mấy xuân, tin đi tin lại, Tới xuân này tin hãy vắng không. Thấy nhàn, luống tưởng thư phong, Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng. Gió tây nổi không đường hồng tiện, Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa. Màn mưa trướng tuyết xông pha, Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài. Đề chữ gấm, phong thôi lại mở, Gieo bói tiền tin dở còn ngờ. Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ, Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai. Há như ai, hồn say bóng lẫn, Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không. Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng, Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo. Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ? Đèn có biết, dường bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương ! Gà eo óc gáy sương năm trống, Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên. Khắc giờ đằng đẵng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa. Hương gượng đốt, hồn đà mê mải, Gương gượng soi, lệ lại chứa chan. Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Lòng này gửi gió đông có tiện, Nghìn vàng xin gửi đến non Yên. Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong. Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun. Sương như búa bổ mòn gốc liễu, Mưa dường cưa xẻ héo cành ngô. Giọt sương phủ bụi chim gù, Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi. Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên. Lá màn lay ngọn gió xuyên, Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau. Đâu xiết kể, muôn sầu nghìn não, Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi. Biếng cầm kim, biếng đưa thoi, Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa. Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói, Sớm lại chiều, dòi dõi nương song. Nương song luống ngẩn ngơ lòng, Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ? Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi, Xót nỗi chàng, ngoài cõi Giang Lăng. Khác gì ả Chức, chị Hằng, Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng. Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối, Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm. Mượn hoa, mượn rượu giải buồn, Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi. Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng, Ôm đàn tranh mấy phím rời tay. Xót người hành dịch bấy nay, Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi. Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt, Trống tiều khua, như rứt buồng gan. Võ vàng đổi khác dung nhan, Khuê ly mới biết tân toan dường này. Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ, Chua cay này, há có vì ai ? Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi, Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề. Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng, Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn. Duy còn hồn mộng được gần, Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người. Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ, Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa. Sum vầy mấy lúc tình cờ, Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân. Giận thiếp thân lại không bằng mộng, Được gần chàng bến Lũng, thành Quan. Khi mơ những tiếc khi tàn, Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không ! Duy có một tấm lòng chẳng dứt, Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi. Lòng theo nhưng chửa thấy người, Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe. Trông bến Nam, bãi che mặt nước, Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh. Nhà thôn mấy xóm chông chênh, Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm. Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách, Mây rà cây xanh ngất núi non. Lúa thành thoi thóp bên cồn, Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu. Non Đông thấy lá hầu chất đống, Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai. Khói mù nghi ngút ngàn khơi, Con chim bạt gió lạc loài kêu thương. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc, Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu. Ngàn thông chen chúc chòm lau, Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về. Trông bốn bề chân trời mặt đất, Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen. Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn, Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan ? Gậy rút đất dễ khôn học chước, Khăn gieo cầu nào được thấy tiên. Lòng này hóa đá cũng nên, E không lệ ngọc mà lên trông lầu. Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong. Chẳng hay muôn dặm ruổi giong, Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng ? Lòng chàng ví cũng bằng như thế, Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa. Hướng dương lòng thiếp như hoa, Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương. Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái, Hoa để vàng bởi tại bóng dương. Hoa vàng hoa rụng quanh tường, Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần. Chồi lan nọ trước sân đã hái, Ngọn tần kia bên bãi đưa hương. Sửa xiêm dạo bước tiền đường, Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẩn thờ. Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ, Độ Khuê Triền buổi có buổi không. Thức mây đòi lúc nhạt nồng, Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài. Mặt trăng tỏ thường soi bên gối, Bừng mắt trông sương gội cành ngô. Lạnh lùng thay bấy chiều thu, Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi. Một năm một nhạt mùi son phấn, Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi. Xưa sao hình ảnh chẳng rời, Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương. Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ, Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in. Gió Xuân ngày một vắng tin, Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì. Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy, Trước gió xuân vàng tía sánh nhau. Nọ thì ả Chức chàng Ngâu, Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông. Thương một kẻ phòng không luống giữ, Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau. Thoi đưa ngày tháng ruổi mau, Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh. Xuân thu để giận quanh ở dạ, Hợp ly đành buồn quá khi vui. Oán sầu nhiều nỗi tơi bời, Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân. Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước, E đến khi đầu bạc mà thương. Mặt hoa nọ gã Phan Lang, Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng. Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở, Tiếc quang âm lần lữa gieo qua. Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa, Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng. Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt, Lầu hoa kia phảng phất hơi hương. Trách trời sao để lỡ làng, Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên. Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội, Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương. Chẳng xem chim yến trên rường, Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau. Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh, Nọ loài chim chắp cánh cùng bay. Liễu, sen là thức cỏ cây, Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền. Ấy loài vật tình duyên còn thế, Sao kiếp người nỡ để đấy đây ? Thiếp xin muôn kiếp sau này, Như chim liền cánh, như cây liền cành. Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy, Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau. Thiếp xin chàng chớ bạc đầu, Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung. Xin làm bóng theo cùng chàng vậy, Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên. Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền, Mọi bề trung hiều thiếp xin vẹn tròn. Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt, Sức tý dân dường sắt tri tri. Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi, Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn. Mũi đòng vác đòi lần hăm hở, Đã lòng trời gìn giữ người trung. Hộ chàng trăm trận nên công, Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài. Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải, Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh. Đỉnh non khắc đá đề danh, Triều thiên vào trước cung đình dâng công. Nước duềnh Hán việc đòng rửa sạch, Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen. Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền, Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân. Nền huân tướng đai cân rạng vẻ, Chữ đồng hưu bia để nghìn đông. Ơn trên tử ấm thê phong, Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời. Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ, Chàng hẳn không kém lũ Lạc Dương. Khi về chẳng quả ấn vàng, Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao. Xin vì chàng xếp bào cởi giáp, Xin vì chàng giũ lớp phong sương. Vì chàng tay chuốc chén vàng, Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm, Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu. Câu vui đổi với câu sầu, Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời. Sẽ rót vơi lần lần từng chén, Sẽ ca dần ren rén đòi liên. Liên ngâm đối ẩm đòi phen, Cùng chàng lại kết mối duyên đến già. Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ, Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình. Ngâm nga mong gửi chữ tình, Dường này âu hẳn tài lành trượng phu ! |
"Chinh Phụ Ngâm Khúc" by Đặng Trần Côn - Original Hán Tự Version
Chinh Phụ Ngâm Khúc (征婦吟曲)
by Đặng Trần Côn (1715?-1745)
Poem was originally written in Hán Tự, with 483 verses,
using an old free-style form (trường đoản cú).
It was later translated into Nôm by a number of scholars
(3 translations using lục bát meter,
and 4 translations using song thất lục bát meter).
This is the original Hán Tự version,
with the corresponding Hán Việt written in Quốc-Ngữ.
001 002 003 004 005 006 007 008 009 010 011 012 013 014 015 016 017 018 019 020 021 022 023 024 025 026 027 028 029 030 031 032 033 034 035 036 037 038 039 040 041 042 043 044 045 046 047 048 049 050 051 052 053 054 055 056 057 058 059 060 061 062 063 064 065 066 067 068 069 070 071 072 073 074 075 076 077 078 079 080 081 082 083 084 085 086 087 088 089 090 091 092 093 094 095 096 097 098 099 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266 267 268 269 270 271 272 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312 313 314 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357 358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402 403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447 448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476 477 478 479 480 481 482 483 | 天 地 風 塵 Thiên địa phong trần 紅 顏 多 屯 Hồng nhan đa truân 悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因 Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân 鼓 鼙 聲 動 長 城 月 Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt 烽 火 影 照 甘 泉 雲 Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân 九 重 按 劍 起 當 席 Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch 半 夜 飛 檄 傳 將 軍 Bán dạ phi hịch truyền tướng quân 清 平 三 百 年 天 下 Thanh bình tam bách niên thiên hạ 從 此 戎 衣 屬 武 臣 Tùng thử nhung y thuộc vũ thần 使 星 天 門 催 曉 發 Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát 行 人 重 法 輕 離 別 Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt 弓 箭 兮 在 腰 Cung tiễn hề tại yêu 妻 孥 兮 別 袂 Thê noa hề biệt khuyết 獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁 Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu 喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨 Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán 有 怨 兮 分 攜 Hữu oán hề phân huề 有 愁 兮 契 闊 Hữu sầu hề khế khoát 良 人 二 十 吳 門 豪 Lương nhân nhị thập Ngô môn hào 投 筆 硯 兮 事 弓 刀 Đầu bút nghiên hề sự cung đao 直 把 連 城 獻 明 聖 Trực bả liên thành hiến minh thánh 願 將 尺 劍 斬 天 驕 Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu 丈 夫 千 里 志 馬 革 Trượng phu thiên lý chí mã cách 泰 山 一 擲 輕 鴻 毛 Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao 便 辭 閨 閫 從 征 戰 Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến 西 風 鳴 鞭 出 渭 橋 Tây phong minh tiên xuất Vị kiều 渭 橋 頭 清 水 溝 Vị kiều đầu thanh thuỷ câu 清 水 邊 青 草 途 Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ 送 君 處 兮 心 悠 悠 Tống quân xứ hề tâm du du 君 登 途 兮 妾 恨 不 如 駒 Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu 君 臨 流 兮 妾 恨 不 如 舟 Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu 清 清 有 流 水 Thanh thanh hữu lưu thuỷ 不 洗 妾 心 愁 Bất tẩy thiếp tâm sầu 青 青 有 芳 草 Thanh thanh hữu phương thảo 不 忘 妾 心 憂 Bất vong thiếp tâm ưu 語 復 語 兮 執 君 手 Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ 步 一 步 兮 牽 君 襦 Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu 妾 心 隨 君 似 明 月 Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt 君 心 萬 里 千 山 箭 Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn 擲 離 杯 兮 舞 龍 泉 Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền 橫 征 槊 兮 指 虎 穴 Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt 云 隨 介 子 獵 樓 蘭 Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan 笑 向 蠻 溪 談 馬 援 Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện 君 穿 壯 服 紅 如 霞 Quân xuyên trang phục hồng như hà 君 騎 驍 馬 白 如 雪 Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết 驍 馬 兮 鸞 鈴 Kiêu mã hề loan linh 征 鼓 兮 人 行 Chinh cổ hề nhân hành 須 臾 中 兮 對 面 Tu du trung hề đối diện 頃 刻 裡 兮 分 程 Khoảnh khắc lý hề phân trình 分 程 兮 河 梁 Phân trình hề hà lương 徘 徊 兮 路 旁 Bồi hồi hề lộ bàng 路 旁 一 望 兮 旆 央 央 Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương 前 車 兮 北 細 柳 Tiền xa hề Bắc Tế Liễu 後 騎 兮 西 長 楊 Hậu kỵ hề Tây Trường Dương 騎 車 相 擁 君 臨 塞 Kỵ xa tương ủng quân lâm tái 楊 柳 那 知 妾 斷 腸 Dương liễu na tri thiếp đoạn trường 去 去 落 梅 聲 漸 遠 Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn 行 行 征 旆 色 何 忙 Hành hành chinh bái sắc hà mang 望 雲 去 兮 郎 別 妾 Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp 望 山 歸 兮 妾 思 郎 Vọng sơn quy hề thiếp tư lang 郎 去 程 兮 濛 雨 外 Lang khứ trình hề mông vũ ngoại 妾 歸 處 兮 昨 夜 房 Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng 歸 去 兩 回 顧 Quy khứ lưỡng hồi cố 雲 青 兮 山 蒼 Vân thanh hề sơn thương 郎 顧 妾 兮 咸 陽 Lang cố thiếp hề Hàm Dương 妾 顧 郎 兮 瀟 湘 Thiếp cố lang hề Tiêu Tương 瀟 湘 煙 阻 咸 陽 樹 Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ 咸 陽 樹 隔 瀟 湘 江 Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang 相 顧 不 相 見 Tương cố bất tương kiến 青 青 陌 上 桑 Thanh thanh mạch thượng tang 陌 上 桑 陌 上 桑 Mạch thượng tang mạch thượng tang 妾 意 君 心 誰 短 長 Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường 自 從 別 後 風 沙 隴 Tự tùng biệt hậu phong sa lũng 明 月 知 君 何 處 宿 Minh nguyệt tri quân hà xứ túc 古 來 征 戰 場 Cổ lai chinh chiến trường 萬 里 無 人 屋 Vạn lý vô nhân ốc 風 熬 熬 兮 打 得 人 顏 憔 Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều 水 深 深 兮 怯 得 馬 蹄 縮 Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc 戍 夫 枕 鼓 臥 龍 沙 Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa 戰 士 抱 鞍 眠 虎 陸 Chiến sĩ bão yên miên hổ lục 今 朝 漢 下 白 登 城 Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành 明 日 胡 窺 青 海 曲 Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc 青 海 曲 青 山 高 復 低 Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê 青 山 前 青 溪 斷 復 續 Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục 青 山 上 雪 蒙 頭 Thanh sơn thượng tuyết mông đầu 青 溪 下 水 沒 腹 Thanh khê hạ thuỷ một phúc 可 憐 多 少 鐵 衣 人 Khả liên đa thiểu thiết y nhân 思 歸 當 此 愁 顏 蹙 Tư quy đương thử sầu nhan xúc 錦 帳 君 王 知 也 無 Cẩm trướng quân vương tri dã vô 艱 難 誰 為 畫 征 夫 Gian nan thuỳ vị họa chinh phu 料 想 良 人 經 歷 處 Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ 蕭 關 角 瀚 海 隅 Tiêu Quan giác hãn hải ngung 霜 村 雨 店 Sương thôn vũ điếm 虎 落 蛇 區 Hổ lạc xà khu 風 餐 露 宿 Phong xan lộ túc 雪 脛 冰 鬚 Tuyết hĩnh băng tu 登 高 望 雲 色 Đăng cao vọng vân sắc 安 復 不 生 愁 An phục bất sinh sầu 自 從 別 後 東 南 徼 Tự tùng biệt hậu Ðông Nam kiếu 東 南 知 君 戰 何 道 Đông Nam tri quân chiến hà đạo 古 來 征 戰 人 Cổ lai chinh chiến nhân 性 命 輕 如 草 Tính mệnh khinh như thảo 鋒 刃 下 溫 溫 挾 纊 主 恩 深 Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm 時 刻 中 歷 歷 橫 戈 壯 士 夭 Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu 祈 山 舊 塚 月 茫 茫 Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang 淝 水 新 墳 風 裊 裊 Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu 風 裊 裊 空 吹 死 士 魂 Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn 月 茫 茫 曾 照 征 夫 貌 Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo 征 夫 貌 兮 誰 丹 青 Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh 死 士 魂 兮 誰 哀 弔 Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu 可 憐 爭 鬪 舊 江 山 Khả lân tranh đấu cựu giang sơn 行 人 過 此 情 多 少 Hành nhân quá thử tình đa thiểu 古 來 征 戰 幾 人 還 Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn 班 超 歸 時 鬢 已 斑 Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban 料 想 良 人 馳 騁 外 Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại 三 尺 劍 一 戎 鞍 Tam xích kiếm nhất nhung yên 秋 風 沙 草 Thu phong sa thảo 明 月 關 山 Minh nguyệt quan san 馬 頭 鳴 鏑 Mã đầu minh đích 城 上 緣 竿 Thành thượng duyên can 功 名 百 忙 裏 Công danh bách mang lý 勞 苦 未 應 閒 Lao khổ vị ưng nhàn 勞 與 閒 誰 與 言 Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn 君 在 天 涯 妾 倚 門 Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn 倚 門 固 妾 今 生 分 Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận 天 涯 豈 君 平 生 魂 Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn 自 信 相 隨 魚 水 伴 Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn 那 堪 相 隔 水 雲 村 Na kham tương cách thuỷ vân thôn 妾 身 不 想 為 征 婦 Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ 君 身 豈 學 為 王 孫 Quân thân khởi học vi vương tôn 何 事 江 南 與 江 北 Hà sự giang Nam dữ giang Bắc 令 人 愁 曉 更 愁 昏 Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn 一 個 是 風 流 少 年 客 Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách 一 個 是 深 閨 少 年 婚 Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn 可 堪 兩 年 少 Khả kham lưỡng niên thiếu 千 里 各 寒 暄 Thiên lý các hàn huyên 憶 昔 與 君 相 別 時 Ức tích dữ quân tương biệt thời 柳 條 猶 未 囀 黃 鸝 Liễu điều do vị chuyển hoàng ly 問 君 何 日 歸 Vấn quân hà nhật quy 君 約 杜 鵑 啼 Quân ước đỗ quyên đề 杜 鵑 已 逐 黃 鸝 老 Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão 青 柳 樓 前 語 鷾 鴯 Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi 憶 昔 與 君 相 別 中 Ức tích dữ quân tương biệt trung 雪 梅 猶 未 識 東 風 Tuyết mai do vị thức Ðông phong 問 君 何 日 歸 Vấn quân hà nhật quy 君 指 桃 花 紅 Quân chỉ đào hoa hồng 桃 花 已 伴 東 風 去 Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ 老 梅 江 上 又 芙 蓉 Lão mai giang thượng hựu phù dung 與 我 約 何 所 Dữ ngã ước hà sở 乃 約 隴 西 岑 Nãi ước Lũng Tây sầm 日 中 兮 不 來 Nhật trung hề bất lai 墜 葉 兜 我 簪 Trụy diệp đâu ngã trâm 竚 立 空 涕 泣 Trữ lập không thế khấp 荒 邨 喧 午 禽 Hoang thôn huyên ngọ cầm 與 我 約 何 所 Dữ ngã ước hà sở 乃 約 漢 陽 橋 Nãi ước Hán Dương kiều 日 晚 兮 不 來 Nhật vãn hề bất lai 谷 風 吹 我 袍 Cốc phong xuy ngã bào 竚 立 空 涕 泣 Trữ lập không thế khấp 寒 江 起 暮 潮 Hàn giang khởi mộ trào 昔 年 寄 信 勸 君 回 Tích niên ký tín khuyến quân hồi 今 年 寄 信 勸 君 來 Kim niên ký tín khuyến quân lai 信 來 人 未 來 Tín lai nhân vị lai 楊 花 零 落 委 蒼 苔 Dương hoa linh lạc ủy thương đài 蒼 苔 蒼 苔 又 蒼 苔 Thương đài thương đài hựu thương đài 一 步 閒 庭 百 感 催 Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi 昔 年 回 書 訂 妾 期 Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ 今 年 回 書 訂 妾 歸 Kim niên hồi thư đính thiếp quy 書 歸 人 未 歸 Thư quy nhân vị quy 紗 窗 寂 寞 轉 斜 暉 Sa song tịch mịch chuyển tà huy 斜 暉 斜 暉 又 斜 暉 Tà huy tà huy hựu tà huy 十 約 佳 期 九 度 違 Thập ước giai kỳ cửu độ vi 試 將 去 日 從 頭 數 Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ 不 覺 荷 錢 已 三 鑄 Bất giác hà tiền dĩ tam chú 最 苦 是 連 年 紫 塞 人 Tối khổ thị liên niên tử tái nhân 最 苦 是 千 里 黃 花 戍 Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú 黃 花 戍 誰 無 堂 上 親 Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân 紫 塞 人 誰 無 閨 中 婦 Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ 有 親 安 可 暫 相 離 Hữu thân an khả tạm tương ly 有 婦 安 能 久 相 負 Hữu phụ an năng cửu tương phụ 君 有 老 親 鬢 如 霜 Quân hữu lão thân mấn như sương 君 有 嬰 兒 年 且 孺 Quân hữu anh nhi niên thả nhụ 老 親 兮 倚 門 Lão thân hề ỷ môn 嬰 兒 兮 待 哺 Anh nhi hề đãi bộ 供 親 餐 兮 妾 為 男 Cung thân xan hề thiếp vi nam 課 子 書 兮 妾 為 父 Khóa tử thư hề thiếp vi phụ 供 親 課 子 此 一 身 Cung thân khóa tử thử nhất thân 傷 妾 思 君 今 幾 度 Thương thiếp tư quân kim kỷ độ 思 君 昨 日 兮 已 過 Tư quân tạc nhật hề dĩ quá 思 君 今 年 兮 又 暮 Tư quân kim niên hề hựu mộ 君 淹 留 二 年 三 年 更 四 年 Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên 妾 情 懷 百 縷 千 縷 還 萬 縷 Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ 安 得 在 君 邊 An đắc tại quân biên 訴 妾 衷 腸 苦 Tố thiếp trung trường khổ 妾 有 漢 宮 釵 Thiếp hữu Hán cung thoa 曾 是 嫁 時 將 送 來 Tằng thị giá thời tương tống lai 憑 誰 寄 君 子 Bằng thuỳ ký quân tử 表 妾 相 思 懷 Biểu thiếp tương tư hoài 妾 有 秦 樓 鏡 Thiếp hữu Tần lâu kính 曾 與 郎 初 相 對 影 Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh 憑 誰 寄 君 子 Bằng thùy ký quân tử 照 妾 今 孤 另 Chiếu thiếp kim cô lánh 妾 有 鉤 指 銀 Thiếp hữu câu chỉ ngân 手 中 時 相 親 Thủ trung thời tương thân 憑 誰 寄 君 子 Bằng thuỳ ký quân tử 微 物 寓 慇 懃 Vi vật ngụ ân cần 妾 有 搔 頭 玉 Thiếp hữu tao đầu ngọc 嬰 兒 年 所 弄 Anh nhi niên sở lộng 憑 誰 寄 君 子 Bằng thuỳ ký quân tử 他 鄉 幸 珍 重 Tha hương hạnh trân trọng 昔 年 音 信 有 來 時 Tích niên âm tín hữu lai thời 今 年 音 稀 信 亦 稀 Kim niên âm hy tín diệc hy 見 雁 枉 然 思 塞 帛 Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch 聞 霜 漫 自 製 綿 衣 Văn sương mạn tự chế miên y 西 風 欲 寄 無 鴻 便 Tây phong dục ký vô hồng tiện 天 外 憐 伊 雪 雨 垂 Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ 雪 寒 伊 兮 虎 帳 Tuyết hàn y hề hổ trướng 雨 冷 伊 兮 狼 幃 Vũ lãnh y hề lang vi 寒 冷 般 般 苦 Hàn lãnh ban ban khổ 天 外 可 憐 伊 Thiên ngoại khả lân y 錦 字 題 詩 封 更 展 Cẩm tự đề thi phong cánh triển 金 錢 問 卜 信 還 疑 Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi 幾 度 黃 昏 時 Kỷ độ hoàng hôn thời 重 軒 人 獨 立 Trùng hiên nhân độc lập 幾 回 明 月 夜 Kỷ hồi minh nguyệt dạ 單 枕 鬢 斜 攲 Đơn chẩm mấn tà khi 不 關 酖 與 酣 Bất quan trầm dữ hàm 惛 惛 人 似 醉 Hôn hôn nhân tự tuý 不 關 愚 與 惰 Bất quan ngu dữ nọa 懵 懵 意 如 癡 Mộng mộng ý như si 簪 斜 委 鬌 髼 無 奈 Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại 裙 褪 柔 腰 瘦 不 支 Quần thối nhu yêu sấu bất chi 晝 沈 沈 午 院 行 如 墜 Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ 夕 悄 悄 湘 簾 捲 又 垂 Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ 簾 外 窺 日 出 枝 頭 無 鵲 報 Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo 簾 中 坐 夜 來 心 事 只 燈 知 Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri 燈 知 若 無 知 Đăng tri nhược vô tri 妾 悲 只 自 悲 Thiếp bi chỉ tự bi 悲 又 悲 兮 更 無 言 Bi hựu bi hề cánh vô ngôn 燈 花 人 影 總 堪 憐 Đăng hoa nhân ảnh tổng kham lân 咿 喔 雞 聲 通 五 夜 Y ốc kê thanh thông ngũ dạ 披 拂 槐 陰 度 八 磚 Phi phất hòe âm độ bát chuyên 愁 似 海 刻 如 年 Sầu tự hải, khắc như niên 強 燃 香 花 魂 消 檀 炷 下 Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ 強 臨 鏡 玉 筋 墜 菱 花 前 Cưỡng lâm kính ngọc cân trụy lăng hoa tiền 強 援 琴 指 下 驚 停 鸞 鳳 柱 Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ 強 調 瑟 曲 中 悲 遏 鴛 鴦 絃 Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền 此 意 春 風 若 肯 傳 Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền 千 金 借 力 寄 燕 然 Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên 燕 然 未 能 傳 Yên Nhiên vị năng truyền 憶 君 迢 迢 兮 路 如 天 Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên 天 遠 未 易 通 Thiên viễn vị dị thông 憶 君 悠 悠 兮 思 何 窮 Ức quân du du hề tứ hà cùng 懷 人 處 傷 心 胸 Hoài nhân xứ thương tâm hung 樹 葉 青 霜 裡 Thụ diệp thanh sương lý 蛩 聲 細 雨 中 Cùng thanh tế vũ trung 霜 斧 殘 兮 楊 柳 Sương phủ tàn hề dương liễu 雨 鋸 損 兮 梧 桐 Vũ cứ tổn hề ngô đồng 鳥 返 高 舂 Điểu phản cao thung 露 下 低 叢 Lộ há đê tùng 寒 垣 候 虫 Hàn viên hậu trùng 遠 寺 曉 鐘 Viễn tự hiểu chung 蟋 蟀 數 聲 雨 Tất suất sổ thanh vũ 芭 蕉 一 院 風 Ba tiêu nhất viện phong 風 裂 紙 窗 穿 帳 隙 Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích 月 移 花 影 上 簾 櫳 Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung 花 前 月 照 月 自 白 Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch 月 下 花 開 花 自 紅 Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng 月 花 花 月 兮 影 重 重 Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng 花 前 月 下 兮 心 忡 忡 Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung 千 般 懶 萬 事 慵 Thiên ban lãn, vạn sự dung 慵 女 工 錦 軸 恥 拋 鴛 對 偶 Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu 慵 婦 巧 金 針 羞 刺 蝶 雌 雄 Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng 慵 粧 對 曉 空 施 粉 Dung trang đối hiểu không thi phấn 慵 語 終 朝 悶 倚 窗 倚 窗 Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song 倚 窗 復 倚 窗 Ỷ song ỷ song phục ỷ song 郎 君 去 兮 誰 為 容 Lang quân khứ hề thuỳ vi dung 誰 為 容 兮 空 盤 桓 Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn 郎 君 去 兮 隔 重 關 Lang quân khứ hề cách trùng quan 何 啻 天 帝 孫 Hà thí Thiên đế tôn 冷 落 泣 銀 渚 lãnh lạc khấp Ngân Chử 何 啻 姮 娥 婦 Hà thí Hằng Nga phụ 凄 凉 坐 廣 寒 thê lương tọa Quảng Hàn 藉 愁 兮 為 枕 Tạ sầu hề vi chẩm 煮 悶 兮 為 餐 Chử muộn hề vi xan 欲 將 酒 制 愁 Dục tương tửu chế sầu 愁 重 酒 無 力 Sầu trọng tửu vô lực 欲 將 花 解 悶 Dục tương hoa giải muộn 悶 壓 花 無 顏 Muộn áp hoa vô nhan 愁 悶 總 為 愁 悶 誤 Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ 悶 愁 化 作 九 泉 灘 Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than 試 瓊 笙 兮 不 成 響 Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng 抱 銀 箏 兮 不 忍 彈 Bão ngân tranh hề bất nhẫn đàn 思 遠 塞 兮 行 路 難 Tư viễn tái hề hành lộ nan 念 征 夫 兮 囊 索 單 Niệm chinh phu hề nang tác đơn 鵑 聲 啼 落 關 情 淚 Quyên thanh đề lạc quan tình lệ 樵 鼓 敲 殘 帶 憊 肝 Tiều cổ xao tàn đái bại can 不 勝 憔 悴 形 骸 軟 Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn 始 覺 睽 離 滋 味 酸 Thủy giác khuê ly tư vị toan 滋 味 酸 兮 更 辛 酸 Tư vị toan hề toan cánh tân 酸 辛 端 的 為 良 人 Toan tân đoan đích vị lương nhân 為 良 人 兮 雙 妾 淚 Vị lương nhân hề song thiếp lệ 為 良 人 兮 隻 妾 身 Vị lương nhân hề chích thiếp thân 妾 身 不 到 君 征 帳 Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng 妾 淚 不 到 君 征 巾 Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân 惟 有 夢 魂 無 不 到 Duy hữu mộng hồn vô bất đáo 尋 君 夜 夜 到 江 津 Tầm quân dạ dạ đáo giang tân 尋 君 兮 陽 台 路 Tầm quân hề Dương Đài lộ 會 君 兮 湘 水 濱 Hội quân hề Tương thuỷ tân 記 得 幾 番 歡 會 處 Ký đắc kỷ phiên hoan hội xứ 無 非 一 枕 夢 中 春 Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân 此 身 反 恨 不 如 夢 Thử thân phản hận bất như mộng 隴 水 函 關 與 子 親 Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân 夢 去 每 憎 驚 更 斷 Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn 夢 回 又 慮 幻 非 真 Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân 惟 有 寸 心 真 不 斷 Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn 未 嘗 頃 刻 少 離 君 Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân 心 不 離 君 未 見 君 Tâm bất ly quân vị kiến quân 凭 高 幾 度 望 征 輪 Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân 望 君 何 所 見 Vọng quân hà sở kiến 江 洲 滿 白 蘋 Giang châu mãn bạch tần 燕 草 披 青 縷 Yên thảo phi thanh lũ 秦 桑 染 綠 雲 Tần tang nhiễm lục vân 南 來 井 邑 半 兵 塵 Nam lai tỉnh ấp bán binh trần 落 日 平 沙 鷺 一 群 Lạc nhật bình sa lộ nhất quần 望 君 何 所 見 Vọng quân hà sở kiến 官 路 短 長 亭 Quan lộ đoản trường đình 雲 間 吳 樹 暗 Vân gian Ngô thọ ám 天 際 蜀 山 青 Thiên tế Thục sơn thanh 北 來 禾 黍 半 荒 城 Bắc lai hoà thử bán hoang thành 微 雨 江 樓 笛 一 聲 Vi vũ giang lâu địch nhất thanh 望 君 何 所 見 Vọng quân hà sở kiến 崆 山 葉 做 堆 Không sơn diệp tố đôi 自 飛 青 野 雉 Tự phi thanh dã trĩ 自 舞 隔 江 梅 Tự vũ cách giang mai 東 去 煙 嵐 慘 不 開 Đông khứ yên lam thảm bất khai 西 風 飄 薄 鳥 聲 哀 Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai 望 君 何 所 見 Vọng quân hà sở kiến 河 水 曲 如 鉤 Hà thủy khúc như câu 長 空 數 點 雁 Trường không sổ điểm nhạn 遠 浦 一 歸 舟 Viễn phố nhất quy châu 西 去 松 楸 接 斷 蕪 Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu 行 人 微 沒 隔 蒼 洲 Hành nhân vi một cách thương châu 望 盡 天 頭 又 地 頭 Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu 幾 日 登 樓 更 下 樓 Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu 凍 雲 阻 盡 相 思 眼 Đống vân trở tận tương tư nhãn 何 處 玉 關 征 戰 陬 Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu 恨 無 長 房 縮 地 術 Hận vô trường phòng súc địa thuật 恨 無 仙 子 擲 巾 符 Hận vô tiên tử trịch cân phù 有 心 誠 化 石 Hữu tâm thành hóa thạch 無 淚 可 登 樓 Vô lệ khả đăng lâu 回 首 長 堤 楊 柳 色 Hồi thủ trường đề dương liễu sắc 悔 教 夫 婿 覓 封 侯 Hối giao phu tế mịch phong hầu 不 識 離 家 千 里 外 Bất thức ly gia thiên lý ngoại 君 心 有 似 妾 心 不 Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu 君 心 倘 與 妾 心 似 Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự 妾 亦 於 君 何 怨 尤 Thiếp diệc ư quân hà oán vưu 妾 心 如 花 常 向 陽 Thiếp tâm như hoa thường hướng dương 只 怕 君 心 如 流 光 Chỉ phạ quân tâm như lưu quang 流 光 一 去 不 復 照 Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu 花 為 流 光 黃 又 黃 Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng 花 黃 更 向 誰 邊 笑 Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu 流 光 不 肯 一 迴 照 Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu 黃 花 卻 為 流 光 老 Hoàng hoa khước vi lưu quang lão 黃 花 老 兮 落 滿 墻 Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường 花 落 如 今 經 幾 霜 Hoa lạc như kim kinh kỷ sương 庭 蘭 兮 已 摘 Đình lan hề dĩ trích 江 藻 兮 又 芳 Giang tảo hề hựu phương 攝 衣 步 前 堂 Nhiếp y bộ tiền đường 仰 目 觀 天 章 Ngưỡng mục quan thiên chương 纖 雲 時 彷 彿 Tiêm vân thời phảng phất 北 斗 忽 低 昂 Bắc đẩu hốt đê ngang 河 水 翻 明 滅 Hà thuỷ phiên minh diệt 參 躔 乍 現 藏 Sâm triền sạ hiện tàng 月 照 兮 我 床 Nguyệt chiếu hề ngã sàng 風 吹 兮 我 牆 Phong xuy hề ngã tường 玉 顏 隨 年 削 Ngọc nhan tuỳ niên tước 丈 夫 猶 他 方 Trượng phu do tha phương 昔 為 形 與 影 Tích vi hình dữ ảnh 今 為 參 與 商 Kim vi Sâm dữ Thương 君 邊 雲 擁 青 絲 騎 Quân biên vân ủng thanh ty kỵ 妾 處 苔 生 嚮 屧 廊 Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang 廊 內 春 風 日 將 歇 Lang nội xuân phong nhật tương yết 可 憐 誤 盡 良 時 節 Khả lân ngộ tận lương thời tiết 良 時 節 姚 黃 魏 紫 嫁 東 風 Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Ðông phong 良 時 節 織 女 牛 郎 會 明 月 Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt 昨 日 未 笄 西 家 娘 Tạc nhật vị kê Tây gia nương 今 年 已 歸 東 鄰 倩 Kim niên dĩ quy Ðông lân thiến 可 怜 兔 守 一 空 房 Khả linh thố thủ nhất không phòng 年 年 誤 盡 良 時 節 Niên niên ngộ tận lương thời tiết 良 時 節 兮 忽 如 梭 Lương thời tiết hề hốt như thoa 人 世 青 春 容 易 過 Nhân thế thanh xuân dung dị qua 況 復 是 春 悶 未 消 秋 恨 續 Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục 況 復 是 合 歡 更 少 別 愁 多 Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa 別 愁 秋 恨 兩 相 磨 Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma 蒲 柳 青 青 能 幾 何 Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà 空 嘆 惜 淚 咨 嗟 Không thán tích lệ tư ta 只 怕 白 到 文君 頭 空 嘆 惜 Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích 只 恐 花 到 潘 郎 鬢 浪咨 嗟 Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lãng tư ta 嘆 惜 何 以 為 顏 色 猶 紅 如 嫩 花 Thán tích hà dĩ vi Nhan sắc do hồng như nộn hoa 咨 嗟 何 以 為 Tư ta hà dĩ vi 光 陰 一 擲 無 回 戈 Quang âm nhất trịch vô hồi qua 咨 命 薄 惜 年 花 Tư mệnh bạc tích niên hoa 紛 紛 少 婦 幾 成 皤 Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà 香 閣 重 懷 陪 笑 臉 Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm 花 樓 尚 記 解 香 羅 Hoa lâu thượng ký giải hương la 恨 天 不 與 人 方 便 Hận thiên bất dữ nhân phương tiện 底 事 到 今 成 坎 坷 Để sự đáo kim thành khảm kha 坎 坷 坎 坷 知 奈 何 Khảm kha khảm kha tri nại hà 為 妾 嗟 兮 為 君 嗟 Vị thiếp ta hề vị quân ta 君 不 見 野 外 雙 鴛 鴦 Quân bất kiến dã ngoại song uyên ương 甘 心 不 忍 兩 分 張 Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương 又 不 見 樑 間 雙 燕 燕 Hựu bất kiến lương giang song yến yến 白 首 何 曾 忘 眷 戀 Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến 鶼 鶼 也 無 情 Kiêm kiêm dã vô tình 比 翼 相 隨 過 一 生 Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh 蛩 蛩 也 無 知 Cùng cùng dã vô tri 並 驅 到 老 不 相 違 Tịnh khu đáo lão bất tương vi 路 柳 曾 傳 連 理 處 Lộ liễu tằng truyền liên lý xứ 池 蓮 亦 有 並 頭 時 Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời 負 蟨 兮 駏 驉 Phụ quyết hề cự hư 抱 蘿 兮 菟 絲 Bão la hề thố ty 何 人 生 之 相 違 Hà nhân sinh chi tương vi 嗟 物 類 之 如 斯 Ta vật loại chi như tư 安 得 在 天 為 比 翼 鳥 An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu 在 地 為 連 理 枝 Tại địa vi liên lý chi 寧 甘 死 相 見 Ninh cam tử tương kiến 不 忍 生 相 離 Bất nhẫn sinh tương ly 雖 然 死 相 見 Tuy nhiên tử tương kiến 曷 若 生 相 隨 Hạt nhược sinh tương tuỳ 安 得 君 無 老 日 An đắc quân vô đáo lão nhật 妾 常 少 年 Thiếp thường thiếu niên 願 為 影 兮 隨 君 邊 Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên 君 有 行 兮 影 不 遠 Quân hữu hành hề ảnh bất viễn 君 依 光 兮 妾 如 願 Quân y quang hề thiếp như nguyện 願 君 許 國 心 如 丹 Nguyện quân hứa quốc tâm như đan 願 君 庇 民 身 如 鐵 Nguyện quân tỳ dân thân như thiết 饑 來 吞 下 月 氏 頭 Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu 渴 來 飲 下 單 于 血 Khát lai ẩm hạ Thiền Vu huyết 何 幸 期 門 鋒 刃 中 Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung 老 天 著 意 護 英 雄 Lão thiên trước ý hộ anh hùng 護 英 雄 百 戰 功 Hộ anh hùng bách chiến công 長 驅 駟 馬 靜 關 東 Trường khu tứ mã tịnh Quan Ðông 關 東 關 北 休 傳 箭 Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn 山 尾 山 頭 早 掛 弓 Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung 捷 色 旌 旗 辭 塞 月 Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt 凱 歌 將 士 背 邊 風 Khải ca tướng sĩ bối biên phong 勒 詩 兮 燕 然 石 Lặc thi hề Yên Nhiên thạch 獻 馘 兮 未 央 宮 Hiến quắc hề Vị Ương cung 未 央 宮 兮 向 天 朝 Vị Ương cung hề hướng thiên triều 挽 銀 河 兮 洗 刀 弓 Vãn Ngân hà hề tẩy đao cung 詞 人 刪 下 平 淮 頌 Từ nhân san hạ Bình Hoài Tụng 樂 府 歌 傳 入 漢 謠 Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao 凌 煙 閣 兮 秦 叔 寶 Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu 麒 麟 台 兮 霍 嫖 姚 Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu 天 長 地 久 茅 苴 券 Thiên trường địa cửu mao thư khoán 子 蔭 妻 封 爵 祿 標 Tử ấm thê phong tước lộc tiêu 有 愁 兮 此 日 Hữu sầu hề thử nhật 得 意 兮 來 時 Đắc ý hề lai thời 妾 非 蘇 家 癡 心 婦 Thiếp phi Tô gia si tâm phụ 君 亦 洛 陽 好 男 兒 Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi 歸 來 倘 佩 黃 金 印 Quy lai thảng bội hoàng kim ấn 肯 學 當 年 不 下 機 Khẳng học đương niên bất há ky 願 為 君 兮 解 征 衣 Nguyện vi quân hề giải chinh y 願 為 君 兮 捧 霞 巵 Nguyện vi quân hề bổng hà chi 為 君 梳 櫛 雲 鬟 髻 Vi quân sơ trất vân hoàn kế 為 君 粧 點 玉 臙 脂 Vi quân trang điểm ngọc yên chi 取 君 看 兮 舊 淚 帕 Thủ quân khan hề cựu lệ phạ 訴 君 聽 兮 舊 情 詞 Tố quân thính hề cựu tình từ 舊 情 詞 兮 換 新 聯 Cựu tình từ hề hoán tân liên 語 新 話 舊 兮 酒 杯 前 Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền 淺 斟 兮 慢 慢 Thiển châm hề mạn mạn 底 唱 兮 連 連 Đê xướng hề liên liên 斟 不 斟 兮 蒲 城 釀 Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng 唱 不 唱 兮 紫 騮 篇 Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên 願 斟 九 醞 兮 唱 雙 聯 Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên 與 君 整 頓 兮 舊 姻 緣 Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên 交 頸 成 雙 到 老 天 Giao kỉnh thành song đáo lão thiên 償 了 功 名 離 別 債 Thường liễu công danh ly biệt trái 相 憐 相 守 太 平 年 Tương liên tương thủ thái bình niên 太 平 年 願 君 止 戈 置 Thái bình niên nguyện quân chỉ qua trí 若 然 此 別 妾 何 淚 Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ 將 會 之 期 將 寄 言 Tương hội chi kỳ tương ký ngôn 嗟 乎 丈 夫 當 如 是 Ta hồ trượng phu đương như thị. |
"Khóc Tổng Cóc" - Poem by Hồ Xuân Hương
Chàng Cóc ơi ! Chàng cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
"Khóc Ông Phủ Vĩnh Tường" - Poem by Hồ Xuân Hương
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi !
Cái nợ ba sinh đã trả rồi,
Chôn chặt văn chương ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn khép lại rồi
Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc,
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi !
"Không Chồng Mà Chửa" - Poem by Hồ Xuân Hương
Cả nể cho nên sự dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao đà nẩy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có, mới ngoan.
"Lấy Chồng Chung" - Poem by Hồ Xuân Hương
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
"Mắng Học Trò Dốt" - Poem by Hồ Xuân Hương
Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.
(2)
Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên,
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
"Mời Trầu" - Poem by Hồ Xuân Hương
Quả cau, nho nhỏ, miếng trầu ôi,
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
"Quả Mít" - Poem by Hồ Xuân Hương
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó, nhựa ra taỵ
"Qua Kẽm Trống" - Poem by Hồ Xuân Hương
Hai bên thì núi, giữa thì sông,
Có phải đây là kẽm Trống không?
Gió đập cành cây khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
Ở trong hang đá hơi còn hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.