Friday, December 11, 2009

Chinese Lunar Calendar: New Year's Dates and Year Names from 1901 to 2050


19-Feb-1901
8-Feb-1902
29-Jan-1903
16-Feb-1904
4-Feb-1905
25-Jan-1906
13-Feb-1907
2-Feb-1908
22-Jan-1909
10-Feb-1910
30-Jan-1911
18-Feb-1912
6-Feb-1913
26-Jan-1914
14-Feb-1915
3-Feb-1916
23-Jan-1917
11-Feb-1918
1-Feb-1919
20-Feb-1920
8-Feb-1921
28-Jan-1922
16-Feb-1923
5-Feb-1924
24-Jan-1925
13-Feb-1926
2-Feb-1927
23-Jan-1928
10-Feb-1929
30-Jan-1930
17-Feb-1931
6-Feb-1932
26-Jan-1933
14-Feb-1934
4-Feb-1935
24-Jan-1936
11-Feb-1937
31-Jan-1938
19-Feb-1939
8-Feb-1940
27-Jan-1941
15-Feb-1942
5-Feb-1943
25-Jan-1944
13-Feb-1945
2-Feb-1946
22-Jan-1947
10-Feb-1948
29-Jan-1949
17-Feb-1950
6-Feb-1951
27-Jan-1952
14-Feb-1953
3-Feb-1954
24-Jan-1955
12-Feb-1956
31-Jan-1957
18-Feb-1958
8-Feb-1959
28-Jan-1960
15-Feb-1961
5-Feb-1962
25-Jan-1963
13-Feb-1964
2-Feb-1965
21-Jan-1966
9-Feb-1967
30-Jan-1968
17-Feb-1969
6-Feb-1970
27-Jan-1971
15-Feb-1972
3-Feb-1973
23-Jan-1974
11-Feb-1975
31-Jan-1976
18-Feb-1977
7-Feb-1978
28-Jan-1979
16-Feb-1980
5-Feb-1981
25-Jan-1982
13-Feb-1983
2-Feb-1984
20-Feb-1985
9-Feb-1986
29-Jan-1987
17-Feb-1988
6-Feb-1989
27-Jan-1990
15-Feb-1991
4-Feb-1992
23-Jan-1993
10-Feb-1994
31-Jan-1995
19-Feb-1996
7-Feb-1997
28-Jan-1998
16-Feb-1999
5-Feb-2000
24-Jan-2001
12-Feb-2002
1-Feb-2003
22-Jan-2004
9-Feb-2005
29-Jan-2006
18-Feb-2007
7-Feb-2008
26-Jan-2009
14-Feb-2010
3-Feb-2011
23-Jan-2012
10-Feb-2013
31-Jan-2014
19-Feb-2015
8-Feb-2016
28-Jan-2017
16-Feb-2018
5-Feb-2019
25-Jan-2020
12-Feb-2021
1-Feb-2022
22-Jan-2023
10-Feb-2024
29-Jan-2025
17-Feb-2026
6-Feb-2027
26-Jan-2028
13-Feb-2029
3-Feb-2030
23-Jan-2031
11-Feb-2032
31-Jan-2033
19-Feb-2034
8-Feb-2035
28-Jan-2036
15-Feb-2037
4-Feb-2038
24-Jan-2039
12-Feb-2040
1-Feb-2041
22-Jan-2042
10-Feb-2043
30-Jan-2044
17-Feb-2045
6-Feb-2046
26-Jan-2047
14-Feb-2048
2-Feb-2049
23-Jan-2050
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
Tân Sửu
Nhâm Dần
Quý Mẹo
Giáp Thìn
Ất Tỵ
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Mậu Thân
Kỷ Dậu
Canh Tuất
Tân Hợi
Nhâm Tý
Quý Sửu
Giáp Dần
Ất Mẹo
Bính Thìn
Đinh Tỵ
Mậu Ngọ
Kỷ Mùi
Canh Thân
Tân Dậu
Nhâm Tuất
Quý Hợi
Giáp Tý
Ất Sửu
Bính Dần
Đinh Mẹo
Mậu Thìn
Kỷ Tỵ
Canh Ngọ
Tân Mùi
Nhâm Thân
Quý Dậu
Giáp Tuất
Ất Hợi
Bính Tý
Đinh Sửu
Mậu Dần
Kỷ Mẹo
Canh Thìn
Tân Tỵ
Nhâm Ngọ
Quý Mùi
Giáp Thân
Ất Dậu
Bính Tuất
Đinh Hợi
Mậu Tý
Kỷ Sửu
Canh Dần
Tân Mẹo
Nhâm Thìn
Quý Tỵ
Giáp Ngọ
Ất Mùi
Bính Thân
Đinh Dậu
Mậu Tuất
Kỷ Hợi
Canh Tý
Tân Sửu
Nhâm Dần
Quý Mẹo
Giáp Thìn
Ất Tỵ
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Mậu Thân
Kỷ Dậu
Canh Tuất
Tân Hợi
Nhâm Tý
Quý Sửu
Giáp Dần
Ất Mẹo
Bính Thìn
Đinh Tỵ
Mậu Ngọ
Kỷ Mùi
Canh Thân
Tân Dậu
Nhâm Tuất
Quý Hợi
Giáp Tý
Ất Sửu
Bính Dần
Đinh Mẹo
Mậu Thìn
Kỷ Tỵ
Canh Ngọ
Tân Mùi
Nhâm Thân
Quý Dậu
Giáp Tuất
Ất Hợi
Bính Tý
Đinh Sửu
Mậu Dần
Kỷ Mẹo
Canh Thìn
Tân Tỵ
Nhâm Ngọ
Quý Mùi
Giáp Thân
Ất Dậu
Bính Tuất
Đinh Hợi
Mậu Tý
Kỷ Sửu
Canh Dần
Tân Mẹo
Nhâm Thìn
Quý Tỵ
Giáp Ngọ
Ất Mùi
Bính Thân
Đinh Dậu
Mậu Tuất
Kỷ Hợi
Canh Tý
Tân Sửu
Nhâm Dần
Quý Mẹo
Giáp Thìn
Ất Tỵ
Bính Ngọ
Đinh Mùi
Mậu Thân
Kỷ Dậu
Canh Tuất
Tân Hợi
Nhâm Tý
Quý Sửu
Giáp Dần
Ất Mẹo
Bính Thìn
Đinh Tỵ
Mậu Ngọ
Kỷ Mùi
Canh Thân
Tân Dậu
Nhâm Tuất
Quý Hợi
Giáp Tý
Ất Sửu
Bính Dần
Đinh Mẹo
Mậu Thìn
Kỷ Tỵ
Canh Ngọ
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)
(Ram)
(Monkey)
(Rooster)
(Dog)
(Boar)
(Rat)
(Ox)
(Tiger)
(Rabbit)
(Dragon)
(Snake)
(Horse)

Chinese Lunar Calendar: The Twenty-Four Solar Terms (Tiết Khí)

The Chinese calendar marks the year with 24 days (called Solar Terms, or Tiết Khí, 節氣) that are used to indicate the alternation of the seasons and climate changes. Tiết Khí played an important role in ancient China's farming activities and animal husbandry.

Since the earth revolves around the sun 360° per year, and since there are 24 solar terms each year, each Tiết Khí is spaced exactly 15° apart along the ecliptic. Since the earth's path around the sun is not a circle but an ellipse, and since its speed is not exactly the same everywhere around that path, each Tiết Khí is not exactly 15 days apart but about 14-16 days apart.

Since all calculations are based on longitude 120° east and latitude 35° north, the exact timing of Tiết Khí may fall on anytime during the day. To standardize the timing, all Tiết Khí begin on the midnight of the corresponding Tiết Khí.

Tiết Khí 1 is Lập Xuân (立春, Beginning of Spring), falls around February 4.

Here is the list.

01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
315°
330°
345°

15°
30°
45°
60°
75°
90°
105°
120°
135°
150°
165°
180°
195°
210°
225°
240°
255°
270°
285°
300°
Lập Xuân
Vũ Thủy
Kinh Trập
Xuân Phân
Thanh Minh
Cốc Vũ
Lập Hạ
Tiểu Mãn
Mang Chủng
Hạ Chí
Tiểu Thử
Đại Thử
Lập Thu
Xử Thử
Bạch Lộ
Thu Phân
Hàn Lộ
Sương Giáng
Lập Đông
Tiểu Tuyết
Đại Tuyết
Đông Chí
Tiểu Hàn
Đại Hàn
立春
雨水
驚蟄
春分
清明
穀雨
立夏
小滿
芒種
夏至
小暑
大暑
立秋
處暑
白露
秋分
寒露
霜降
立冬
小雪
大雪
冬至
小寒
大寒
Beginning of Spring
Rain Water
Waking of Insects
Spring Equinox
Pure Brightness
Grain Rain
Beginning of Summer
Grain Full
Grain in Ear
Summer Solstice
Slight Heat
Great Heat
Beginning of Autumn
Limit of Heat
White Dew
Autumnal Equinox
Cold Dew
Frost's descent
Beginning of Winter
Slight Snow
Great Snow
Winter Solstice
Slight Cold
Great Cold
4-Feb
19-Feb
5-Mar
12-Mar
5-Apr
20-Apr
6-May
21-May
6-Jun
21-Jun
7-Jul
23-Jul
7-Aug
23-Aug
8-Sep
23-Sep
8-Oct
23-Oct
7-Nov
22-Nov
7-Dec
22-Dec
6-Jan
21-Jan

Viet-Nam History Books, as Written and Appended throughout the Dynasties

(To download, right-click on the link then save. If the link is invalid, please make a comment, and it will be fixed.)

Lam Sơn Thực Lục: Written in 1431 by Nguyễn Trãi during the Later Lê Dynasty, with a foreword by Emperor Lê Lợi.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: Written around 1697 by a number of historians during the Trần and Lê Dynasties.

Đại Việt Thông Sử: Written in 1759 by Lê Quý Đôn during the Later Lê Dynasty.

Việt Sử Tiêu Án: Written in 1775 by Ngô Thời Sỹ during the Later Lê Dynasty.

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục: Written in 1856 by historians during the Nguyễn Dynasty.

Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu: Written in 1908 by historians during the Nguyễn Dynasty.

Việt Nam Sử Lược: Written in 1919 by Trần Trọng Kim during the Nguyễn Dynasty.

Việt Sử Toàn Thư: Written in 1960 by historian Phạm Văn Sơn.

"Chợ Trời" - Poem by Hồ Xuân Hương

Khen thay con Tạo khéo trêu ngươi. 
Bày đặt ra nên cảnh chợ Trời! 
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng, 
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi. 
Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn, 
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi. 
Bán lợi, buôn danh nào nhương kẻ, 
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.

"Đánh Đu" - Poem by Hồ Xuân Hương

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng, 
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông. 
Trai đu gối hạc khom khom cật, 
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng. 
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới. 
Hai hàng chân ngọc duỗi song song. 
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá!
Cột nhổ đi rồi, lõ bỏ không.

"Bánh Trôi Nước" - Poem by Hồ Xuân Hương

Thân em vừa trắng, lại vừa tròn, 
Bảy nổi ba chìm với nước non. 
Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn, 
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

"Đền Thái Thú" - Poem by Hồ Xuân Hương

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, 
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo. 
Ví đây đổi phận làm trai được, 
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.

"Đền Trấn Quốc" - Poem by Hồ Xuân Hương

Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu, 
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau! 
Một tòa sen lạt hơi hương ngự, 
Năm thức mây phong điểm áo chầu. 
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn. 
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau. 
Người xưa, cảnh cũ đâu đâu tá? 
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu. 

"Đồng Tiền Hoẻn" - Poem by Hồ Xuân Hương

Cũng lò cũng bể, cũng cùng than, 
Mở mặt vuông tròn với thế gian. 
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn, 
Đủ đồng ắt cũng đóng nên quan. 

"Đánh Cờ" - Poem by Hồ Xuân Hương

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc, 
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người. 
Hẹn rằng đấu trí mà chơi, 
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết. 

Nào tướng sĩ dàn ra cho hết, 
Để đôi ta quyết liệt một phen. 
Quân thiếp trắng, quân chàng đen, 
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa. 

Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa, 
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên. 
Hai xe hà, chàng gác hai bên, 
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ. 

Chàng lừa thiếp đương khi bất ý, 
Đem tốt đầu dú dí vô cung, 
Thiếp đang mắc nước xe lồng, 
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu. 

Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu 
Thua thì thua quyết níu lấy con. 
Khi vui nước nước non non, 
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.

"Đèo Ba Dội" - Poem by Hồ Xuân Hương

Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.

"Ốc Nhồi" - Poem by Hồ Xuân Hương

Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi, 
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi. 
Quân tử có thương thì bóc yếm, 
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi. 

"Bọn Đồ Dốt" - Poem by Hồ Xuân Hương

Dắt díu nhau lên đến cửa chiền, 
Cũng đòi học nói, nói không nên. 
Ai về nhắn bảo phường lòi tói, 
Muốn sống, đem vôi quét trả đền.

"Bà Lang Khóc Chồng" - Poem by Hồ Xuân Hương

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ? 
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti. 
Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo, 
Cay đắng, chàng ơi, vị quế chi. 
Thạch nhũ, trần bì, sao để lại, 
Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi. 
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ? 
Sinh kỳ, chàng ơi, tử tắc quy. 

"Cảnh Thu" - Poem by Hồ Xuân Hương

Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa, 
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ, 
Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán, 
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ. 
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu. 
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ. 
Ơ hay, cánh cương ưa người nhỉ, 
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.

"Cái Quạt Giấy" - Poem by Hồ Xuân Hương

Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa, 
Duyên em dính dáng tự ngàn xưa. 
Vành ra ba góc da còn thiếu, 
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa. 
Mát mặt anh hùng khi tắt gió, 
Che đầu quân tử lúc sa mưa. 
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng, 
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?
 
(2)

Mười bảy hay là mười tám đây? 
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay. 
Mỏng dầy chừng ấy chành ba góc, 
Rộng hẹp dường nào cắm một cây. 
Càng nóng bao nhiêu càng muốn mát, 
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày. 
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy, 
Chúa dấu vua yêu một cái này. 

"Chơi Đền Khán Xuân" - Poem by Hồ Xuân Hương

Êm ái chiều xuân tới khán đài, 
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai ! 
Bà hồi triêu mộ chuông gầm sóng, 
Một vương tang thương nước lộn trời. 
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn, 
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi. 
Nào nào cực lạc là đâu tá, 
Cực lạc là đây chín rõ mười.

"Chửa Hoang" - Poem by Hồ Xuân Hương

Cả nể cho nên hóa dở dang, 
Nỗi niềm có thấy hỡi chăng chàng? 
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, 
Phận liễu sao đành nẩy nét ngang 
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? 
Mảnh tình một khối thiếp xin mang. 
Quản bao miệng thế lời chênh lệch, 
Không có nhưng mà có mới ngoan. 

"Chùa Hương" - Poem by Hồ Xuân Hương

Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm, 
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom. 
Người quen cõi Phật chen chân xọc, 
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm. 
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót, 
Con thuyền vô trạo cúi lom khom. 
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại, 
Rõ khéo trời già đến dở dom. 

"Chùa Quán Sứ" - Poem by Hồ Xuân Hương

Quán sứ sao mà cảnh vắng teo, 
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo? 
Chày kình tiểu để suông không đấm, 
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo. 
Sáng banh không kẻ khua tang mít, 
Trưa trật nào người móc kẽ rêu. 
Cha kiếp đường tu sao lắt léo, 
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo. 

"Chùa Xưa" - Poem by Hồ Xuân Hương

Thày tớ thung dung dạo cảnh chùa, 
Thơ thì lưng túi, rượu lưng hồ. 
Cá khe lắng kệ, mang nghi ngóp, 
Chim núi nghe kinh, cổ gật gù. 
Then cửa từ bi chen chật cánh, 
Nén hương tế độ cắm đầy lô. 
Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí, 
Phúc đức như ông được mấy bồ? 

"Quán Nước Bên Đường" - Poem by Hồ Xuân Hương

Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo, 
Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo. 
Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác, 
Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo. 
Ba trạc cây xanh hình uốn éo, 
Một dòng nước biếc, cỏ leo teo. 
Thú vui quên cả niềm lo cũ, 
Kìa cái diều ai thả lộn lèo. 

"Con Cua" - Poem by Hồ Xuân Hương

Em có mai xanh, có yếm vàng, 
Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghêng ngang. 
Xin theo ông Khổng về Ðông Lỗ, 
Học thói Bàn Canh nấu chín Thang. 

"Dệt Cưởi" - Poem by Hồ Xuân Hương

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau, 
Con cò mấp máy suốt đêm thâu. 
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc, 
Một suốt đâm ngang thích thích mau. 
Rộng, hẹp, nhỏ, to, vừa vặn cả. 
Ngắn, dài, khuôn khổ cũng như nhau. 
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ, 
Chờ đến ba thu mới dãi mầu. 

"Dỗ Bạn Khóc Chồng" - Poem by Hồ Xuân Hương

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng. 
Nín đi kẻo thẹn với non sông. 
Ai về nhắn nhủ đàn em nhé. 
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung. 

"Duyên Kỳ Ngộ" - Poem by Hồ Xuân Hương

Nghìn dặm có duyên sự cũng thành, 
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh. 
Tấc gang tay họa thơ không dứt, 
Gần gụi cung dương lá vẫn lành. 
Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện, 
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh. 
Tuy không thả lá trôi dòng ngự, 
Chim tới vườn đào thế mới xinh. 

"Giếng Nước" - Poem by Hồ Xuân Hương

Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông, 
Giếng tốt thanh tân, giếng lạ lùng. 
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép, 
Nuớc trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép, 
Cá giếc le te lách giữa dòng. 
Giếng ấy thanh tân ai đã biết? 
Đố ai dám thả nạ rồng rồng.

"Giễu Quan Hậu" - Poem by Hồ Xuân Hương

Tình cảnh ấy, nước non này, 
Dẫu không Bồng Đảo cũng tiên đây. 
Hoành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn, 
Thúy lĩnh đen trùm một thức mây. 
Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch, 
Phất phơ sườn núi lá thu bay. 
Hỡi người quân tử đi đâu đó? 
Đến cảnh sao mà đứng lượm tay. 

"Già Kén Kẹn Hom" - Poem by Hồ Xuân Hương

Bụng làm dạ chịu trách chi ai, 
Già kén kẹn hom ví chẳng sai. 
Tiếc đĩa hồng ngâm cho chuột vọc, 
Thừa mâm bánh ngọt để ngâu vầy. 
Miệng khôn trôn dại đừng than phận, 
Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời! 
Đừng đứng núi này trông núi nọ, 
Đói lòng nên mới phải ăn khoai. 

"Hầu Nghi Xuân Tiên Điền Nhân" - Poem by Hồ Xuân Hương

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.

"Hỏi Cô Hàng Sách" - Poem by Hồ Xuân Hương

Cô hàng lấy sách cắp ra đây! 
Xem thử truyện nào thú lại say. 
Nữ tú có bao xin xếp cả, 
Phương hoa phỏng liệu có còn hay?
Tuyển phu mặc ý tìm cho kỹ, 
Chinh phụ thế nào bán lấy may. 
Kỳ ngộ bích câu xin tiện hỏi, 
Gía tiền cả đó tính sao vay. 

"Hỏi Trăng" - Poem by Hồ Xuân Hương

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn, 
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn. 
Hỏi con bạch thố đà bao tuổi, 
Hở chị Hằng Nga đã mấy con? 
Đêm tối cớ chi soi gác tía? 
Ngày xanh còn thẹn với vừng son. 
Năm canh lơ lửng chờ ai đó? 
Hay có tình riêng với nước non? 

"Hang Cắc Cớ" - Poem by Hồ Xuân Hương

Trời đất sinh ra đá một chòm, 
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom. 
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn, 
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm. 
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm, 
Con đường vô ngạn tối om om. 
Khen ai đẽo đá, tài xuyên tạc, 
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm. 

"Hang Thanh Hóa" - Poem by Hồ Xuân Hương

Khen thay con tạo khéo khôn phàm, 
Một đố dương ra biết mấy ngoàm. 
Lườn đá cỏ leo, rờ rậm rạp. 
Lách khe nước rỉ, mó lam nham. 
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ, 
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am. 
Đến mới biết rằng hang Thanh Hóa, 
Chồn nhân, mỏi gối, hãy còn ham. 

"Chinh Phụ Ngâm Khúc" by Đặng Trần Côn - Nôm Version by Ðoàn Thị Ðiểm

Chinh Phụ Ngâm Khúc (征婦吟曲)
by Đặng Trần Côn (1715?-1745)

Poem was originally written in Hán Tự, with 483 verses,
using an old free-style form (trường đoản cú).
It was later translated into Nôm by a number of scholars
(3 translations using lục bát meter,
and 4 translations using song thất lục bát meter).

This is the most popular Nôm version,
written by Ðoàn Thị Ðiểm (1705-1748),
with 412 verses, in song thất lục bát meter.
(Some scholars now believe that this version
was written by Phan Huy Ích.)


001
002
003
004
005
006
007
008
009
010
011
012
013
014
015
016
017
018
019
020
021
022
023
024
025
026
027
028
029
030
031
032
033
034
035
036
037
038
039
040
041
042
043
044
045
046
047
048
049
050
051
052
053
054
055
056
057
058
059
060
061
062
063
064
065
066
067
068
069
070
071
072
073
074
075
076
077
078
079
080
081
082
083
084
085
086
087
088
089
090
091
092
093
094
095
096
097
098
099
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
322
323
324
325
326
327
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394
395
396
397
398
399
400
401
402
403
404
405
406
407
408
409
410
411
412
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ.
Áo nhung trao quan vũ từ đây.
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
Bóng cờ tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San.
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia taỵ
Hà Lương chia rẽ đường này,
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương.
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng ?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mát phương nao ?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Hình khe, thế núi gần xa,
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như giội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu.
Thương người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ?
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan.
Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương !
Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo,
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ?
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước,
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu ?
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ?
Những mong cá nước sum vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn.
Cớ sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu.
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành.
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục, oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyến gió Đông,
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm ?
Ngập ngừng, lá rụng cành trâm,
Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao ?
Ngập ngừng gió thổi chéo bào,
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại, người không thấy lại,
Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.
Thư thường tới, người không thấy tới,
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
Tiền sen này đã nẩy là ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao!
Nhớ chàng trải mấy sương sao,
Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư.
Kể năm đã ba tư cách diễn,
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,
Gương lầu Tần dấu đã soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gửi tới nơi,
Để chàng trân trọng dấu người tương thân.
Trải mấy xuân, tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhàn, luống tưởng thư phong,
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi không đường hồng tiện,
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Đề chữ gấm, phong thôi lại mở,
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai, hồn say bóng lẫn,
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương !
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu,
Mưa dường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau.
Đâu xiết kể, muôn sầu nghìn não,
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi.
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song.
Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ?
Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng, ngoài cõi Giang Lăng.
Khác gì ả Chức, chị Hằng,
Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng.
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,
Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.
Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng,
Ôm đàn tranh mấy phím rời tay.
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt,
Trống tiều khua, như rứt buồng gan.
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,
Chua cay này, há có vì ai ?
Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.
Duy còn hồn mộng được gần,
Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.
Khi mơ những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không !
Duy có một tấm lòng chẳng dứt,
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến Nam, bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh.
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách,
Mây rà cây xanh ngất núi non.
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Non Đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai.
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu.
Ngàn thông chen chúc chòm lau,
Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bề chân trời mặt đất,
Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen.
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan ?
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên.
Lòng này hóa đá cũng nên,
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng ?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa.
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.
Chồi lan nọ trước sân đã hái,
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẩn thờ.
Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ,
Độ Khuê Triền buổi có buổi không.
Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô.
Lạnh lùng thay bấy chiều thu,
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi.
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương.
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in.
Gió Xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu,
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thương một kẻ phòng không luống giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau.
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh.
Xuân thu để giận quanh ở dạ,
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan Lang,
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng.
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng.
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt,
Lầu hoa kia phảng phất hơi hương.
Trách trời sao để lỡ làng,
Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội,
Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương.
Chẳng xem chim yến trên rường,
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen là thức cỏ cây,
Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền.
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy đây ?
Thiếp xin muôn kiếp sau này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.
Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền,
Mọi bề trung hiều thiếp xin vẹn tròn.
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,
Sức tý dân dường sắt tri tri.
Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi,
Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn.
Mũi đòng vác đòi lần hăm hở,
Đã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài.
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh.
Đỉnh non khắc đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công.
Nước duềnh Hán việc đòng rửa sạch,
Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân.
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ,
Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.
Ơn trên tử ấm thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,
Chàng hẳn không kém lũ Lạc Dương.
Khi về chẳng quả ấn vàng,
Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca dần ren rén đòi liên.
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ,
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu !

"Chinh Phụ Ngâm Khúc" by Đặng Trần Côn - Original Hán Tự Version

Chinh Phụ Ngâm Khúc (征婦吟曲)
by Đặng Trần Côn (1715?-1745)

Poem was originally written in Hán Tự, with 483 verses,
using an old free-style form (trường đoản cú).
It was later translated into Nôm by a number of scholars
(3 translations using lục bát meter,
and 4 translations using song thất lục bát meter).

This is the original Hán Tự version,
with the corresponding Hán Việt written in Quốc-Ngữ.


001

002

003

004

005

006

007

008

009

010

011

012

013

014

015

016

017

018

019

020

021

022

023

024

025

026

027

028

029

030

031

032

033

034

035

036

037

038

039

040

041

042

043

044

045

046

047

048

049

050

051

052

053

054

055

056

057

058

059

060

061

062

063

064

065

066

067

068

069

070

071

072

073

074

075

076

077

078

079

080

081

082

083

084

085

086

087

088

089

090

091

092

093

094

095

096

097

098

099

100

101

102

103

104

105

106

107

108

109

110

111

112

113

114

115

116

117

118

119

120

121

122

123

124

125

126

127

128

129

130

131

132

133

134

135

136

137

138

139

140

141

142

143

144

145

146

147

148

149

150

151

152

153

154

155

156

157

158

159

160

161

162

163

164

165

166

167

168

169

170

171

172

173

174

175

176

177

178

179

180

181

182

183

184

185

186

187

188

189

190

191

192

193

194

195

196

197

198

199

200

201

202

203

204

205

206

207

208

209

210

211

212

213

214

215

216

217

218

219

220

221

222

223

224

225

226

227

228

229

230

231

232

233

234

235

236

237

238

239

240

241

242

243

244

245

246

247

248

249

250

251

252

253

254

255

256

257

258

259

260

261

262

263

264

265

266

267

268

269

270

271

272

273

274

275

276

277

278

279

280

281

282

283

284

285

286

287

288

289

290

291

292

293

294

295

296

297

298

299

300

301

302

303

304

305

306

307

308

309

310

311

312

313

314

315

316

317

318

319

320

321

322

323

324

325

326

327

328

329

330

331

332

333

334

335

336

337

338

339

340

341

342

343

344

345

346

347

348

349

350

351

352

353

354

355

356

357

358

359

360

361

362

363

364

365

366

367

368

369

370

371

372

373

374

375

376

377

378

379

380

381

382

383

384

385

386

387

388

389

390

391

392

393

394

395

396

397

398

399

400

401

402

403

404

405

406

407

408

409

410

411

412

413

414

415

416

417

418

419

420

421

422

423

424

425

426

427

428

429

430

431

432

433

434

435

436

437

438

439

440

441

442

443

444

445

446

447

448

449

450

451

452

453

454

455

456

457

458

459

460

461

462

463

464

465

466

467

468

469

470

471

472

473

474

475

476

477

478

479

480

481

482

483





































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































































天 地 風 塵
Thiên địa phong trần
紅 顏 多 屯
Hồng nhan đa truân
悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân
鼓 鼙 聲 動 長 城 月
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
烽 火 影 照 甘 泉 雲
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
九 重 按 劍 起 當 席
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
半 夜 飛 檄 傳 將 軍
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
清 平 三 百 年 天 下
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
從 此 戎 衣 屬 武 臣
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
使 星 天 門 催 曉 發
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
行 人 重 法 輕 離 別
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
弓 箭 兮 在 腰
Cung tiễn hề tại yêu
妻 孥 兮 別 袂
Thê noa hề biệt khuyết
獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨
Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán
有 怨 兮 分 攜
Hữu oán hề phân huề
有 愁 兮 契 闊
Hữu sầu hề khế khoát
良 人 二 十 吳 門 豪
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
投 筆 硯 兮 事 弓 刀
Đầu bút nghiên hề sự cung đao
直 把 連 城 獻 明 聖
Trực bả liên thành hiến minh thánh
願 將 尺 劍 斬 天 驕
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu
丈 夫 千 里 志 馬 革
Trượng phu thiên lý chí mã cách
泰 山 一 擲 輕 鴻 毛
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
便 辭 閨 閫 從 征 戰
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến
西 風 鳴 鞭 出 渭 橋
Tây phong minh tiên xuất Vị kiều
渭 橋 頭 清 水 溝
Vị kiều đầu thanh thuỷ câu
清 水 邊 青 草 途
Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ
送 君 處 兮 心 悠 悠
Tống quân xứ hề tâm du du
君 登 途 兮 妾 恨 不 如 駒
Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu
君 臨 流 兮 妾 恨 不 如 舟
Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu
清 清 有 流 水
Thanh thanh hữu lưu thuỷ
不 洗 妾 心 愁
Bất tẩy thiếp tâm sầu
青 青 有 芳 草
Thanh thanh hữu phương thảo
不 忘 妾 心 憂
Bất vong thiếp tâm ưu
語 復 語 兮 執 君 手
Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ
步 一 步 兮 牽 君 襦
Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu
妾 心 隨 君 似 明 月
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
君 心 萬 里 千 山 箭
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
擲 離 杯 兮 舞 龍 泉
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
橫 征 槊 兮 指 虎 穴
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
云 隨 介 子 獵 樓 蘭
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
笑 向 蠻 溪 談 馬 援
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
君 穿 壯 服 紅 如 霞
Quân xuyên trang phục hồng như hà
君 騎 驍 馬 白 如 雪
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
驍 馬 兮 鸞 鈴
Kiêu mã hề loan linh
征 鼓 兮 人 行
Chinh cổ hề nhân hành
須 臾 中 兮 對 面
Tu du trung hề đối diện
頃 刻 裡 兮 分 程
Khoảnh khắc lý hề phân trình
分 程 兮 河 梁
Phân trình hề hà lương
徘 徊 兮 路 旁
Bồi hồi hề lộ bàng
路 旁 一 望 兮 旆 央 央
Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương
前 車 兮 北 細 柳
Tiền xa hề Bắc Tế Liễu
後 騎 兮 西 長 楊
Hậu kỵ hề Tây Trường Dương
騎 車 相 擁 君 臨 塞
Kỵ xa tương ủng quân lâm tái
楊 柳 那 知 妾 斷 腸
Dương liễu na tri thiếp đoạn trường
去 去 落 梅 聲 漸 遠
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
行 行 征 旆 色 何 忙
Hành hành chinh bái sắc hà mang
望 雲 去 兮 郎 別 妾
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
望 山 歸 兮 妾 思 郎
Vọng sơn quy hề thiếp tư lang
郎 去 程 兮 濛 雨 外
Lang khứ trình hề mông vũ ngoại
妾 歸 處 兮 昨 夜 房
Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng
歸 去 兩 回 顧
Quy khứ lưỡng hồi cố
雲 青 兮 山 蒼
Vân thanh hề sơn thương
郎 顧 妾 兮 咸 陽
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
妾 顧 郎 兮 瀟 湘
Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
瀟 湘 煙 阻 咸 陽 樹
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
咸 陽 樹 隔 瀟 湘 江
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
相 顧 不 相 見
Tương cố bất tương kiến
青 青 陌 上 桑
Thanh thanh mạch thượng tang
陌 上 桑 陌 上 桑
Mạch thượng tang mạch thượng tang
妾 意 君 心 誰 短 長
Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường
自 從 別 後 風 沙 隴
Tự tùng biệt hậu phong sa lũng
明 月 知 君 何 處 宿
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
古 來 征 戰 場
Cổ lai chinh chiến trường
萬 里 無 人 屋
Vạn lý vô nhân ốc
風 熬 熬 兮 打 得 人 顏 憔
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
水 深 深 兮 怯 得 馬 蹄 縮
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
戍 夫 枕 鼓 臥 龍 沙
Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa
戰 士 抱 鞍 眠 虎 陸
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
今 朝 漢 下 白 登 城
Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
明 日 胡 窺 青 海 曲
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
青 海 曲 青 山 高 復 低
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
青 山 前 青 溪 斷 復 續
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
青 山 上 雪 蒙 頭
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
青 溪 下 水 沒 腹
Thanh khê hạ thuỷ một phúc
可 憐 多 少 鐵 衣 人
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
思 歸 當 此 愁 顏 蹙
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
錦 帳 君 王 知 也 無
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
艱 難 誰 為 畫 征 夫
Gian nan thuỳ vị họa chinh phu
料 想 良 人 經 歷 處
Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
蕭 關 角 瀚 海 隅
Tiêu Quan giác hãn hải ngung
霜 村 雨 店
Sương thôn vũ điếm
虎 落 蛇 區
Hổ lạc xà khu
風 餐 露 宿
Phong xan lộ túc
雪 脛 冰 鬚
Tuyết hĩnh băng tu
登 高 望 雲 色
Đăng cao vọng vân sắc
安 復 不 生 愁
An phục bất sinh sầu
自 從 別 後 東 南 徼
Tự tùng biệt hậu Ðông Nam kiếu
東 南 知 君 戰 何 道
Đông Nam tri quân chiến hà đạo
古 來 征 戰 人
Cổ lai chinh chiến nhân
性 命 輕 如 草
Tính mệnh khinh như thảo
鋒 刃 下 溫 溫 挾 纊 主 恩 深
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
時 刻 中 歷 歷 橫 戈 壯 士 夭
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
祈 山 舊 塚 月 茫 茫
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
淝 水 新 墳 風 裊 裊
Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
風 裊 裊 空 吹 死 士 魂
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
月 茫 茫 曾 照 征 夫 貌
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
征 夫 貌 兮 誰 丹 青
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
死 士 魂 兮 誰 哀 弔
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
可 憐 爭 鬪 舊 江 山
Khả lân tranh đấu cựu giang sơn
行 人 過 此 情 多 少
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
古 來 征 戰 幾 人 還
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
班 超 歸 時 鬢 已 斑
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
料 想 良 人 馳 騁 外
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
三 尺 劍 一 戎 鞍
Tam xích kiếm nhất nhung yên
秋 風 沙 草
Thu phong sa thảo
明 月 關 山
Minh nguyệt quan san
馬 頭 鳴 鏑
Mã đầu minh đích
城 上 緣 竿
Thành thượng duyên can
功 名 百 忙 裏
Công danh bách mang lý
勞 苦 未 應 閒
Lao khổ vị ưng nhàn
勞 與 閒 誰 與 言
Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn
君 在 天 涯 妾 倚 門
Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn
倚 門 固 妾 今 生 分
Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận
天 涯 豈 君 平 生 魂
Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn
自 信 相 隨 魚 水 伴
Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn
那 堪 相 隔 水 雲 村
Na kham tương cách thuỷ vân thôn
妾 身 不 想 為 征 婦
Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ
君 身 豈 學 為 王 孫
Quân thân khởi học vi vương tôn
何 事 江 南 與 江 北
Hà sự giang Nam dữ giang Bắc
令 人 愁 曉 更 愁 昏
Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn
一 個 是 風 流 少 年 客
Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
一 個 是 深 閨 少 年 婚
Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn
可 堪 兩 年 少
Khả kham lưỡng niên thiếu
千 里 各 寒 暄
Thiên lý các hàn huyên
憶 昔 與 君 相 別 時
Ức tích dữ quân tương biệt thời
柳 條 猶 未 囀 黃 鸝
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly
問 君 何 日 歸
Vấn quân hà nhật quy
君 約 杜 鵑 啼
Quân ước đỗ quyên đề
杜 鵑 已 逐 黃 鸝 老
Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão
青 柳 樓 前 語 鷾 鴯
Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi
憶 昔 與 君 相 別 中
Ức tích dữ quân tương biệt trung
雪 梅 猶 未 識 東 風
Tuyết mai do vị thức Ðông phong
問 君 何 日 歸
Vấn quân hà nhật quy
君 指 桃 花 紅
Quân chỉ đào hoa hồng
桃 花 已 伴 東 風 去
Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ
老 梅 江 上 又 芙 蓉
Lão mai giang thượng hựu phù dung
與 我 約 何 所
Dữ ngã ước hà sở
乃 約 隴 西 岑
Nãi ước Lũng Tây sầm
日 中 兮 不 來
Nhật trung hề bất lai
墜 葉 兜 我 簪
Trụy diệp đâu ngã trâm
竚 立 空 涕 泣
Trữ lập không thế khấp
荒 邨 喧 午 禽
Hoang thôn huyên ngọ cầm
與 我 約 何 所
Dữ ngã ước hà sở
乃 約 漢 陽 橋
Nãi ước Hán Dương kiều
日 晚 兮 不 來
Nhật vãn hề bất lai
谷 風 吹 我 袍
Cốc phong xuy ngã bào
竚 立 空 涕 泣
Trữ lập không thế khấp
寒 江 起 暮 潮
Hàn giang khởi mộ trào
昔 年 寄 信 勸 君 回
Tích niên ký tín khuyến quân hồi
今 年 寄 信 勸 君 來
Kim niên ký tín khuyến quân lai
信 來 人 未 來
Tín lai nhân vị lai
楊 花 零 落 委 蒼 苔
Dương hoa linh lạc ủy thương đài
蒼 苔 蒼 苔 又 蒼 苔
Thương đài thương đài hựu thương đài
一 步 閒 庭 百 感 催
Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi
昔 年 回 書 訂 妾 期
Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ
今 年 回 書 訂 妾 歸
Kim niên hồi thư đính thiếp quy
書 歸 人 未 歸
Thư quy nhân vị quy
紗 窗 寂 寞 轉 斜 暉
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
斜 暉 斜 暉 又 斜 暉
Tà huy tà huy hựu tà huy
十 約 佳 期 九 度 違
Thập ước giai kỳ cửu độ vi
試 將 去 日 從 頭 數
Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ
不 覺 荷 錢 已 三 鑄
Bất giác hà tiền dĩ tam chú
最 苦 是 連 年 紫 塞 人
Tối khổ thị liên niên tử tái nhân
最 苦 是 千 里 黃 花 戍
Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú
黃 花 戍 誰 無 堂 上 親
Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
紫 塞 人 誰 無 閨 中 婦
Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ
有 親 安 可 暫 相 離
Hữu thân an khả tạm tương ly
有 婦 安 能 久 相 負
Hữu phụ an năng cửu tương phụ
君 有 老 親 鬢 如 霜
Quân hữu lão thân mấn như sương
君 有 嬰 兒 年 且 孺
Quân hữu anh nhi niên thả nhụ
老 親 兮 倚 門
Lão thân hề ỷ môn
嬰 兒 兮 待 哺
Anh nhi hề đãi bộ
供 親 餐 兮 妾 為 男
Cung thân xan hề thiếp vi nam
課 子 書 兮 妾 為 父
Khóa tử thư hề thiếp vi phụ
供 親 課 子 此 一 身
Cung thân khóa tử thử nhất thân
傷 妾 思 君 今 幾 度
Thương thiếp tư quân kim kỷ độ
思 君 昨 日 兮 已 過
Tư quân tạc nhật hề dĩ quá
思 君 今 年 兮 又 暮
Tư quân kim niên hề hựu mộ
君 淹 留 二 年 三 年 更 四 年
Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên
妾 情 懷 百 縷 千 縷 還 萬 縷
Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ
安 得 在 君 邊
An đắc tại quân biên
訴 妾 衷 腸 苦
Tố thiếp trung trường khổ
妾 有 漢 宮 釵
Thiếp hữu Hán cung thoa
曾 是 嫁 時 將 送 來
Tằng thị giá thời tương tống lai
憑 誰 寄 君 子
Bằng thuỳ ký quân tử
表 妾 相 思 懷
Biểu thiếp tương tư hoài
妾 有 秦 樓 鏡
Thiếp hữu Tần lâu kính
曾 與 郎 初 相 對 影
Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh
憑 誰 寄 君 子
Bằng thùy ký quân tử
照 妾 今 孤 另
Chiếu thiếp kim cô lánh
妾 有 鉤 指 銀
Thiếp hữu câu chỉ ngân
手 中 時 相 親
Thủ trung thời tương thân
憑 誰 寄 君 子
Bằng thuỳ ký quân tử
微 物 寓 慇 懃
Vi vật ngụ ân cần
妾 有 搔 頭 玉
Thiếp hữu tao đầu ngọc
嬰 兒 年 所 弄
Anh nhi niên sở lộng
憑 誰 寄 君 子
Bằng thuỳ ký quân tử
他 鄉 幸 珍 重
Tha hương hạnh trân trọng
昔 年 音 信 有 來 時
Tích niên âm tín hữu lai thời
今 年 音 稀 信 亦 稀
Kim niên âm hy tín diệc hy
見 雁 枉 然 思 塞 帛
Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch
聞 霜 漫 自 製 綿 衣
Văn sương mạn tự chế miên y
西 風 欲 寄 無 鴻 便
Tây phong dục ký vô hồng tiện
天 外 憐 伊 雪 雨 垂
Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
雪 寒 伊 兮 虎 帳
Tuyết hàn y hề hổ trướng
雨 冷 伊 兮 狼 幃
Vũ lãnh y hề lang vi
寒 冷 般 般 苦
Hàn lãnh ban ban khổ
天 外 可 憐 伊
Thiên ngoại khả lân y
錦 字 題 詩 封 更 展
Cẩm tự đề thi phong cánh triển
金 錢 問 卜 信 還 疑
Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi
幾 度 黃 昏 時
Kỷ độ hoàng hôn thời
重 軒 人 獨 立
Trùng hiên nhân độc lập
幾 回 明 月 夜
Kỷ hồi minh nguyệt dạ
單 枕 鬢 斜 攲
Đơn chẩm mấn tà khi
不 關 酖 與 酣
Bất quan trầm dữ hàm
惛 惛 人 似 醉
Hôn hôn nhân tự tuý
不 關 愚 與 惰
Bất quan ngu dữ nọa
懵 懵 意 如 癡
Mộng mộng ý như si
簪 斜 委 鬌 髼 無 奈
Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại
裙 褪 柔 腰 瘦 不 支
Quần thối nhu yêu sấu bất chi
晝 沈 沈 午 院 行 如 墜
Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ
夕 悄 悄 湘 簾 捲 又 垂
Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
簾 外 窺 日 出 枝 頭 無 鵲 報
Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo
簾 中 坐 夜 來 心 事 只 燈 知
Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri
燈 知 若 無 知
Đăng tri nhược vô tri
妾 悲 只 自 悲
Thiếp bi chỉ tự bi
悲 又 悲 兮 更 無 言
Bi hựu bi hề cánh vô ngôn
燈 花 人 影 總 堪 憐
Đăng hoa nhân ảnh tổng kham lân
咿 喔 雞 聲 通 五 夜
Y ốc kê thanh thông ngũ dạ
披 拂 槐 陰 度 八 磚
Phi phất hòe âm độ bát chuyên
愁 似 海 刻 如 年
Sầu tự hải, khắc như niên
強 燃 香 花 魂 消 檀 炷 下
Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ
強 臨 鏡 玉 筋 墜 菱 花 前
Cưỡng lâm kính ngọc cân trụy lăng hoa tiền
強 援 琴 指 下 驚 停 鸞 鳳 柱
Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ
強 調 瑟 曲 中 悲 遏 鴛 鴦 絃
Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền
此 意 春 風 若 肯 傳
Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền
千 金 借 力 寄 燕 然
Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên
燕 然 未 能 傳
Yên Nhiên vị năng truyền
憶 君 迢 迢 兮 路 如 天
Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên
天 遠 未 易 通
Thiên viễn vị dị thông
憶 君 悠 悠 兮 思 何 窮
Ức quân du du hề tứ hà cùng
懷 人 處 傷 心 胸
Hoài nhân xứ thương tâm hung
樹 葉 青 霜 裡
Thụ diệp thanh sương lý
蛩 聲 細 雨 中
Cùng thanh tế vũ trung
霜 斧 殘 兮 楊 柳
Sương phủ tàn hề dương liễu
雨 鋸 損 兮 梧 桐
Vũ cứ tổn hề ngô đồng
鳥 返 高 舂
Điểu phản cao thung
露 下 低 叢
Lộ há đê tùng
寒 垣 候 虫
Hàn viên hậu trùng
遠 寺 曉 鐘
Viễn tự hiểu chung
蟋 蟀 數 聲 雨
Tất suất sổ thanh vũ
芭 蕉 一 院 風
Ba tiêu nhất viện phong
風 裂 紙 窗 穿 帳 隙
Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích
月 移 花 影 上 簾 櫳
Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung
花 前 月 照 月 自 白
Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch
月 下 花 開 花 自 紅
Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng
月 花 花 月 兮 影 重 重
Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
花 前 月 下 兮 心 忡 忡
Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung
千 般 懶 萬 事 慵
Thiên ban lãn, vạn sự dung
慵 女 工 錦 軸 恥 拋 鴛 對 偶
Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu
慵 婦 巧 金 針 羞 刺 蝶 雌 雄
Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng
慵 粧 對 曉 空 施 粉
Dung trang đối hiểu không thi phấn
慵 語 終 朝 悶 倚 窗 倚 窗
Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song
倚 窗 復 倚 窗
Ỷ song ỷ song phục ỷ song
郎 君 去 兮 誰 為 容
Lang quân khứ hề thuỳ vi dung
誰 為 容 兮 空 盤 桓
Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn
郎 君 去 兮 隔 重 關
Lang quân khứ hề cách trùng quan
何 啻 天 帝 孫
Hà thí Thiên đế tôn
冷 落 泣 銀 渚
lãnh lạc khấp Ngân Chử
何 啻 姮 娥 婦
Hà thí Hằng Nga phụ
凄 凉 坐 廣 寒
thê lương tọa Quảng Hàn
藉 愁 兮 為 枕
Tạ sầu hề vi chẩm
煮 悶 兮 為 餐
Chử muộn hề vi xan
欲 將 酒 制 愁
Dục tương tửu chế sầu
愁 重 酒 無 力
Sầu trọng tửu vô lực
欲 將 花 解 悶
Dục tương hoa giải muộn
悶 壓 花 無 顏
Muộn áp hoa vô nhan
愁 悶 總 為 愁 悶 誤
Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ
悶 愁 化 作 九 泉 灘
Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than
試 瓊 笙 兮 不 成 響
Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng
抱 銀 箏 兮 不 忍 彈
Bão ngân tranh hề bất nhẫn đàn
思 遠 塞 兮 行 路 難
Tư viễn tái hề hành lộ nan
念 征 夫 兮 囊 索 單
Niệm chinh phu hề nang tác đơn
鵑 聲 啼 落 關 情 淚
Quyên thanh đề lạc quan tình lệ
樵 鼓 敲 殘 帶 憊 肝
Tiều cổ xao tàn đái bại can
不 勝 憔 悴 形 骸 軟
Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn
始 覺 睽 離 滋 味 酸
Thủy giác khuê ly tư vị toan
滋 味 酸 兮 更 辛 酸
Tư vị toan hề toan cánh tân
酸 辛 端 的 為 良 人
Toan tân đoan đích vị lương nhân
為 良 人 兮 雙 妾 淚
Vị lương nhân hề song thiếp lệ
為 良 人 兮 隻 妾 身
Vị lương nhân hề chích thiếp thân
妾 身 不 到 君 征 帳
Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng
妾 淚 不 到 君 征 巾
Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân
惟 有 夢 魂 無 不 到
Duy hữu mộng hồn vô bất đáo
尋 君 夜 夜 到 江 津
Tầm quân dạ dạ đáo giang tân
尋 君 兮 陽 台 路
Tầm quân hề Dương Đài lộ
會 君 兮 湘 水 濱
Hội quân hề Tương thuỷ tân
記 得 幾 番 歡 會 處
Ký đắc kỷ phiên hoan hội xứ
無 非 一 枕 夢 中 春
Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân
此 身 反 恨 不 如 夢
Thử thân phản hận bất như mộng
隴 水 函 關 與 子 親
Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
夢 去 每 憎 驚 更 斷
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
夢 回 又 慮 幻 非 真
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
惟 有 寸 心 真 不 斷
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
未 嘗 頃 刻 少 離 君
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân
心 不 離 君 未 見 君
Tâm bất ly quân vị kiến quân
凭 高 幾 度 望 征 輪
Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
江 洲 滿 白 蘋
Giang châu mãn bạch tần
燕 草 披 青 縷
Yên thảo phi thanh lũ
秦 桑 染 綠 雲
Tần tang nhiễm lục vân
南 來 井 邑 半 兵 塵
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
落 日 平 沙 鷺 一 群
Lạc nhật bình sa lộ nhất quần
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
官 路 短 長 亭
Quan lộ đoản trường đình
雲 間 吳 樹 暗
Vân gian Ngô thọ ám
天 際 蜀 山 青
Thiên tế Thục sơn thanh
北 來 禾 黍 半 荒 城
Bắc lai hoà thử bán hoang thành
微 雨 江 樓 笛 一 聲
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
崆 山 葉 做 堆
Không sơn diệp tố đôi
自 飛 青 野 雉
Tự phi thanh dã trĩ
自 舞 隔 江 梅
Tự vũ cách giang mai
東 去 煙 嵐 慘 不 開
Đông khứ yên lam thảm bất khai
西 風 飄 薄 鳥 聲 哀
Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
河 水 曲 如 鉤
Hà thủy khúc như câu
長 空 數 點 雁
Trường không sổ điểm nhạn
遠 浦 一 歸 舟
Viễn phố nhất quy châu
西 去 松 楸 接 斷 蕪
Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu
行 人 微 沒 隔 蒼 洲
Hành nhân vi một cách thương châu
望 盡 天 頭 又 地 頭
Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu
幾 日 登 樓 更 下 樓
Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu
凍 雲 阻 盡 相 思 眼
Đống vân trở tận tương tư nhãn
何 處 玉 關 征 戰 陬
Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu
恨 無 長 房 縮 地 術
Hận vô trường phòng súc địa thuật
恨 無 仙 子 擲 巾 符
Hận vô tiên tử trịch cân phù
有 心 誠 化 石
Hữu tâm thành hóa thạch
無 淚 可 登 樓
Vô lệ khả đăng lâu
回 首 長 堤 楊 柳 色
Hồi thủ trường đề dương liễu sắc
悔 教 夫 婿 覓 封 侯
Hối giao phu tế mịch phong hầu
不 識 離 家 千 里 外
Bất thức ly gia thiên lý ngoại
君 心 有 似 妾 心 不
Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu
君 心 倘 與 妾 心 似
Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự
妾 亦 於 君 何 怨 尤
Thiếp diệc ư quân hà oán vưu
妾 心 如 花 常 向 陽
Thiếp tâm như hoa thường hướng dương
只 怕 君 心 如 流 光
Chỉ phạ quân tâm như lưu quang
流 光 一 去 不 復 照
Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu
花 為 流 光 黃 又 黃
Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng
花 黃 更 向 誰 邊 笑
Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu
流 光 不 肯 一 迴 照
Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu
黃 花 卻 為 流 光 老
Hoàng hoa khước vi lưu quang lão
黃 花 老 兮 落 滿 墻
Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường
花 落 如 今 經 幾 霜
Hoa lạc như kim kinh kỷ sương
庭 蘭 兮 已 摘
Đình lan hề dĩ trích
江 藻 兮 又 芳
Giang tảo hề hựu phương
攝 衣 步 前 堂
Nhiếp y bộ tiền đường
仰 目 觀 天 章
Ngưỡng mục quan thiên chương
纖 雲 時 彷 彿
Tiêm vân thời phảng phất
北 斗 忽 低 昂
Bắc đẩu hốt đê ngang
河 水 翻 明 滅
Hà thuỷ phiên minh diệt
參 躔 乍 現 藏
Sâm triền sạ hiện tàng
月 照 兮 我 床
Nguyệt chiếu hề ngã sàng
風 吹 兮 我 牆
Phong xuy hề ngã tường
玉 顏 隨 年 削
Ngọc nhan tuỳ niên tước
丈 夫 猶 他 方
Trượng phu do tha phương
昔 為 形 與 影
Tích vi hình dữ ảnh
今 為 參 與 商
Kim vi Sâm dữ Thương
君 邊 雲 擁 青 絲 騎
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
妾 處 苔 生 嚮 屧 廊
Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang
廊 內 春 風 日 將 歇
Lang nội xuân phong nhật tương yết
可 憐 誤 盡 良 時 節
Khả lân ngộ tận lương thời tiết
良 時 節 姚 黃 魏 紫 嫁 東 風
Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Ðông phong
良 時 節 織 女 牛 郎 會 明 月
Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt
昨 日 未 笄 西 家 娘
Tạc nhật vị kê Tây gia nương
今 年 已 歸 東 鄰 倩
Kim niên dĩ quy Ðông lân thiến
可 怜 兔 守 一 空 房
Khả linh thố thủ nhất không phòng
年 年 誤 盡 良 時 節
Niên niên ngộ tận lương thời tiết
良 時 節 兮 忽 如 梭
Lương thời tiết hề hốt như thoa
人 世 青 春 容 易 過
Nhân thế thanh xuân dung dị qua
況 復 是 春 悶 未 消 秋 恨 續
Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục
況 復 是 合 歡 更 少 別 愁 多
Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa
別 愁 秋 恨 兩 相 磨
Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma
蒲 柳 青 青 能 幾 何
Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà
空 嘆 惜 淚 咨 嗟
Không thán tích lệ tư ta
只 怕 白 到 文君 頭 空 嘆 惜
Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích
只 恐 花 到 潘 郎 鬢 浪咨 嗟
Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lãng tư ta
嘆 惜 何 以 為 顏 色 猶 紅 如 嫩 花
Thán tích hà dĩ vi Nhan sắc do hồng như nộn hoa
咨 嗟 何 以 為
Tư ta hà dĩ vi
光 陰 一 擲 無 回 戈
Quang âm nhất trịch vô hồi qua
咨 命 薄 惜 年 花
Tư mệnh bạc tích niên hoa
紛 紛 少 婦 幾 成 皤
Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà
香 閣 重 懷 陪 笑 臉
Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm
花 樓 尚 記 解 香 羅
Hoa lâu thượng ký giải hương la
恨 天 不 與 人 方 便
Hận thiên bất dữ nhân phương tiện
底 事 到 今 成 坎 坷
Để sự đáo kim thành khảm kha
坎 坷 坎 坷 知 奈 何
Khảm kha khảm kha tri nại hà
為 妾 嗟 兮 為 君 嗟
Vị thiếp ta hề vị quân ta
君 不 見 野 外 雙 鴛 鴦
Quân bất kiến dã ngoại song uyên ương
甘 心 不 忍 兩 分 張
Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương
又 不 見 樑 間 雙 燕 燕
Hựu bất kiến lương giang song yến yến
白 首 何 曾 忘 眷 戀
Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến
鶼 鶼 也 無 情
Kiêm kiêm dã vô tình
比 翼 相 隨 過 一 生
Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh
蛩 蛩 也 無 知
Cùng cùng dã vô tri
並 驅 到 老 不 相 違
Tịnh khu đáo lão bất tương vi
路 柳 曾 傳 連 理 處
Lộ liễu tằng truyền liên lý xứ
池 蓮 亦 有 並 頭 時
Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời
負 蟨 兮 駏 驉
Phụ quyết hề cự hư
抱 蘿 兮 菟 絲
Bão la hề thố ty
何 人 生 之 相 違
Hà nhân sinh chi tương vi
嗟 物 類 之 如 斯
Ta vật loại chi như tư
安 得 在 天 為 比 翼 鳥
An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu
在 地 為 連 理 枝
Tại địa vi liên lý chi
寧 甘 死 相 見
Ninh cam tử tương kiến
不 忍 生 相 離
Bất nhẫn sinh tương ly
雖 然 死 相 見
Tuy nhiên tử tương kiến
曷 若 生 相 隨
Hạt nhược sinh tương tuỳ
安 得 君 無 老 日
An đắc quân vô đáo lão nhật
妾 常 少 年
Thiếp thường thiếu niên
願 為 影 兮 隨 君 邊
Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên
君 有 行 兮 影 不 遠
Quân hữu hành hề ảnh bất viễn
君 依 光 兮 妾 如 願
Quân y quang hề thiếp như nguyện
願 君 許 國 心 如 丹
Nguyện quân hứa quốc tâm như đan
願 君 庇 民 身 如 鐵
Nguyện quân tỳ dân thân như thiết
饑 來 吞 下 月 氏 頭
Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu
渴 來 飲 下 單 于 血
Khát lai ẩm hạ Thiền Vu huyết
何 幸 期 門 鋒 刃 中
Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung
老 天 著 意 護 英 雄
Lão thiên trước ý hộ anh hùng
護 英 雄 百 戰 功
Hộ anh hùng bách chiến công
長 驅 駟 馬 靜 關 東
Trường khu tứ mã tịnh Quan Ðông
關 東 關 北 休 傳 箭
Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn
山 尾 山 頭 早 掛 弓
Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung
捷 色 旌 旗 辭 塞 月
Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt
凱 歌 將 士 背 邊 風
Khải ca tướng sĩ bối biên phong
勒 詩 兮 燕 然 石
Lặc thi hề Yên Nhiên thạch
獻 馘 兮 未 央 宮
Hiến quắc hề Vị Ương cung
未 央 宮 兮 向 天 朝
Vị Ương cung hề hướng thiên triều
挽 銀 河 兮 洗 刀 弓
Vãn Ngân hà hề tẩy đao cung
詞 人 刪 下 平 淮 頌
Từ nhân san hạ Bình Hoài Tụng
樂 府 歌 傳 入 漢 謠
Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao
凌 煙 閣 兮 秦 叔 寶
Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu
麒 麟 台 兮 霍 嫖 姚
Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu
天 長 地 久 茅 苴 券
Thiên trường địa cửu mao thư khoán
子 蔭 妻 封 爵 祿 標
Tử ấm thê phong tước lộc tiêu
有 愁 兮 此 日
Hữu sầu hề thử nhật
得 意 兮 來 時
Đắc ý hề lai thời
妾 非 蘇 家 癡 心 婦
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
君 亦 洛 陽 好 男 兒
Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi
歸 來 倘 佩 黃 金 印
Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
肯 學 當 年 不 下 機
Khẳng học đương niên bất há ky
願 為 君 兮 解 征 衣
Nguyện vi quân hề giải chinh y
願 為 君 兮 捧 霞 巵
Nguyện vi quân hề bổng hà chi
為 君 梳 櫛 雲 鬟 髻
Vi quân sơ trất vân hoàn kế
為 君 粧 點 玉 臙 脂
Vi quân trang điểm ngọc yên chi
取 君 看 兮 舊 淚 帕
Thủ quân khan hề cựu lệ phạ
訴 君 聽 兮 舊 情 詞
Tố quân thính hề cựu tình từ
舊 情 詞 兮 換 新 聯
Cựu tình từ hề hoán tân liên
語 新 話 舊 兮 酒 杯 前
Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền
淺 斟 兮 慢 慢
Thiển châm hề mạn mạn
底 唱 兮 連 連
Đê xướng hề liên liên
斟 不 斟 兮 蒲 城 釀
Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng
唱 不 唱 兮 紫 騮 篇
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
願 斟 九 醞 兮 唱 雙 聯
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
與 君 整 頓 兮 舊 姻 緣
Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên
交 頸 成 雙 到 老 天
Giao kỉnh thành song đáo lão thiên
償 了 功 名 離 別 債
Thường liễu công danh ly biệt trái
相 憐 相 守 太 平 年
Tương liên tương thủ thái bình niên
太 平 年 願 君 止 戈 置
Thái bình niên nguyện quân chỉ qua trí
若 然 此 別 妾 何 淚
Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ
將 會 之 期 將 寄 言
Tương hội chi kỳ tương ký ngôn
嗟 乎 丈 夫 當 如 是
Ta hồ trượng phu đương như thị.

"Khóc Tổng Cóc" - Poem by Hồ Xuân Hương

Chàng Cóc ơi ! Chàng cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

"Khóc Ông Phủ Vĩnh Tường" - Poem by Hồ Xuân Hương

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi !
Cái nợ ba sinh đã trả rồi,
Chôn chặt văn chương ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn khép lại rồi
Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc,
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi !

"Không Chồng Mà Chửa" - Poem by Hồ Xuân Hương

Cả nể cho nên sự dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao đà nẩy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có, mới ngoan.

"Lấy Chồng Chung" - Poem by Hồ Xuân Hương

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng, 
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung! 
Năm thì mười họa, nên chăng chớ, 
Một tháng đôi lần, có cũng không ... 
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng, 
Cầm bằng làm mướn, mướn không công. 
Thân này ví biết dường này nhỉ, 
Thà trước thôi đành ở vậy xong. 

"Mắng Học Trò Dốt" - Poem by Hồ Xuân Hương

Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.

(2)

Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên,
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống đem vôi quét trả đền.

"Mời Trầu" - Poem by Hồ Xuân Hương

Quả cau, nho nhỏ, miếng trầu ôi, 
Này của Xuân Hương đã quệt rồi. 
Có phải duyên nhau thì thắm lại 
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

"Quả Mít" - Poem by Hồ Xuân Hương

Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy 
Quân tử có thương thì đóng cọc, 
Xin đừng mân mó, nhựa ra taỵ 

"Qua Kẽm Trống" - Poem by Hồ Xuân Hương

Hai bên thì núi, giữa thì sông, 
Có phải đây là kẽm Trống không? 
Gió đập cành cây khua lắc cắc, 
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong. 
Ở trong hang đá hơi còn hẹp, 
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng. 
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại, 
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.